Nhat ký cuôi mùa dịch (27-4-2020)
Giao cảm:trải nghiệm trận dịch
lần này, nhiều người bày tỏ tâm tư rằng tuy đời sống phải chịu đựng những hạn
chế nghiêm nhặt bất thường mọi mặt nhưng bù lại, cao trào chống dịch cũng cho
ta những bài học thực tế trong quan hệ giữa cộng đồng xã hội, giữa các quốc gia
dân tộc, mà bài học được nêu lên hàng đầu là lòng bao dung, hòa ái và hợp tác
trước nguy cơ đe dọa sự sống còn của nhân loại.
Đó là nhận thức tổng quát giữa cộng đồng, nhưng giữa con người
và con người, không phải lúc nào cũng êm đẹp, vẫn thường xãy ra va chạm gây tổn
thương nặng nhẹ về tình cảm, danh dự hay quyền lợi, dẫn đến chia rẽ, thậm chí
ân oán hận thù làm cho mọi đối tượng đều phiền não, bất an, cảm thấy cuộc sống
không còn ý nghĩa cao quý và hạnh phúc. . .
Thế nên, dưới đây, xin chia sẻ đồng cảm với những suy tư trên
bằng các bài sưu tập tư tưởng đạo đời, để cùng nhau suy ngẫm làm bài học để đời
cho bản thân.
* * *
Muốn soi sáng cho đời thì tất phải có ngọn đèn trước đã.
Tịnh Đường Tý thời ngày 23-10 Nhâm Dần (1962)
Tịnh Đường Tý thời ngày 23-10 Nhâm Dần (1962)
Hiệp Thiên Đế Quân,
Chư hiền đã có tâm lo cho Đạo Trung Hưng nhưng sức người có hạn mà sự thử thách lại càng tinh vi, lòng dạ của người rất đa đoan phức tạp. Xem lại lich sử các bậc Thánh triết ngày xưa đã bao phen lo xây dựng cho đời trở về Đạo. Đại đức đại lực đại hùng như Đức Phật Tổ Thích Ca mà còn bị người mưu toan giết hại, đức lớn như Thánh Khổng Tử còn bị giam cầm ở Trần Thái, Jesus Christ chịu nạp mình rồi bị đóng đinh nơi thập tự giá, xem như thế thì các hiền dù phải bị người sỉ nhục, đó cũng là một bài học để bước vào trường thi, có gì đâu mà ưu phiền ngần ngại.
Hiệp hòa là một điều tốt đẹp, từ xưa đến nay loài người vẫn được tôn trọng nhưng sách đã nói “Quân tử hòa nhi bất đồng, tiểu nhân đồng nhi bất hòa” nếu hòa mà không đồng trên một chí hướng hay tư tưởng thì có hòa cũng chẳng đem lại được lợi ích gì, mặc dầu không đồng, người quân tử cũng phải lấy lòng không bụng trống mà ở với người. Phật đã thường dạy cho đệ tử: “Thượng oán tứ dữ thượng lạc” người ta thường oán ghét mình bao nhiều thì mình lại càng đem tình thương sự sống mà trả lại, như thế sự oán kia mới mong tiêu được, mối thị phi mới không còn thêm ra nữa.
Đạo mục đích ra đời là để cứu cho đời đến chỗ tận thiện tận mỹ. Không chỉ lo cho đời được no ấm là xong mà điều cốt yếu là để cứu cho đời thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi, ai nấy cũng được chứng quả Phật Tổ Như Lai Bồ Tát.
Nền Đạo Trung Tông Thầy đã vạch định rõ ràng là giữa Công truyền và Tâm truyền không thể thiếu một được. Nếu trong hai phần ấy mà không giữ được trọn vẹn thì không còn cái nghĩa của cái chữ Trung Tông nữa.
Từ ngày nền Đạo ra đời, bước đầu tiên Thầy đã lo cho cơ Đạo, không khéo do lòng dục của người vì ngã tướng sắc danh mà đưa cơ Đạo đến ngày phải bị thất lạc chơn truyền nên Thầy đã trao phần tâm truyền bí nhiệm cho Ngô Đại Tiên đảm nhiệm. Cơ Đạo đến đây Thầy đã kết liền làm một, quyết không để canh cải rẽ chia, nếu trong hai phần đó thiếu đi một phần thì nền Đạo của Thầy không thể thành tựu được.
Đạo thành là cốt ở người thanh tịnh, thanh tịnh là đầu mối xây nên vũ trụ vạn vật. Vạn vật trở về với nguyên thủy cũng cốt ở chỗ thanh tịnh mà thôi, người mà thanh tịnh thì Trời đất cũng hiệp về, sự thanh tịnh ở đâu thì cơ mầu nhiệm của Trời đất cũng ở đó mà lòng người cũng hướng về nên Lão Quân đã nói: Nhơn năng thường thanh tịnh thiên địa tất giai qui” là ý nghĩa đó vậy.
Chư hiền nơi đây cố gắng thực hiện cho được những điều Lão đã nói. Các bậc đại giác thường nguyện nếu độ không được chúng sinh thì nguyện không thành chánh vị. Có được đại nguyện như thế thì mới thành Đạo. Nhưng có được lời nguyện thốt ra như thế là tâm đã có được những gì để cứu độ cho người, cũng như muốn soi sáng cho đời thì tất phải có ngọn đèn trước đã.
Bây giờ đời đã quá đen tối, chư hiền là những ngọn đèn soi dẫn, nếu chỉ có đèn mà đèn không sáng thì làm sao mà soi dẫn được, vì thế cho nên phải tu, tu là làm cho lòng mình được thanh tịnh, có thanh tịnh thì mới cảm giao cùng Trờ Đất, người vật. Kẻ nào không thanh tịnh dù cho có tài năng trí lực đến đâu cũng chỉ là vật vô dụng cho đời mà thôi.
Không thanh tịnh, cứu cho mình còn không được, mong gì cứu cho đời. Chính bậc đại căn như A-Nan có huệ trí ghi nhớ bậc nhất trong hàng Thinh Văn mà còn bị Phật cứu ra khỏi nạn Ma Đăng Già thay. Huống chi những kẻ thiếu đức thiếu tu mà nói đến việc truyền Đạo giữ Đạo là việc giả dối. . .
Bậc trí giả khoan dung, hòa ái vì luôn
nghĩ cho người, quyết không phải đớn hèn, nhu nhược
06/04/18, 10:30
Tào Bân là đại thần khai quốc của triều đại nhà Tống. Ông có công
thống nhất Tây Vực và Nam Đường. Mặc dù Tào Bân là đại tướng quân oai phong
lừng lẫy thiên hạ, nhưng ông lại có tính cách hiền hậu, nhân từ, luôn biết nghĩ
cho người.
Khi Tào Bân trấn
giữ ở Từ Châu, có một tên quan nhỏ phạm tội. Chiếu theo quân pháp thì người đó
phải bị trừng trị nghiêm khắc. Tào Bân cũng biết điều đó, định tội cho anh này
nhưng lại không thi hành án phạt, có ý tha bổng.
Tào
Bân
Viên quan nhỏ này thấy
Tào Bân xử sự như vậy thì cho rằng ông là người hèn yếu, nhu nhược, có thể dễ
dàng qua mặt được. Vì thế, viên quan này này tiếp tục không xem quân pháp ra
gì, lại tái phạm nhiều lỗi lầm. Một năm sau, Tào Bân hạ lệnh bắt giam viên quan
này lại và nghiêm khắc trừng trị.
Mọi người thấy Tào Bân hành xử như vậy thì lấy
làm khó hiểu lắm, hỏi rằng: “Nếu như tên tiểu quan kia thực sự có tội không thể
tha, thì vì sao ngài lại tha cho hắn một năm rồi mới xử phạt?”.
Tào Bân bèn giải
thích: “Lúc ấy ta nghe nói anh ta mới cưới vợ. Nếu như trừng phạt anh ta thì sẽ
khiến cho người trong nhà họ nghĩ rằng vừa cưới được một cô con dâu không
ra gì, chỉ mang lại xui xẻo, sẽ suốt ngày trách mắng cô ấy. Vậy thì cô gái
ấy làm sao mà sống nổi? Cho nên, ta đem chuyện đó hoãn lại một năm, chứ không
phải vì thế mà phá hỏng quân pháp”.
Mọi người nghe xong
mới thấu hiểu lòng nhân từ của ông và không ai còn cho rằng ông là người hèn
yếu nữa.
No comments:
Post a Comment