https://thuvienhoasen.org/a28741/ban-the-luan-phat-giao-trong-kinh-vien-giac-kinh-hoa-nghiem-kinh-lang-nghiem
Quan niệm về bản thể luận trong triết học phương Đông
Một trong những quan điểm tiêu biểu của người Trung quốc cổ đại về bản thể luận là quan điểmvề Đạo của Lão Tử. Theo Lão tử, “Đạo” là cái có trước trời đất, trống không và lặng yên nhưng lại có ở mọi nơi, là nguồn gốc của vạn vật. Nó là sự thống nhất của thế giới, là bản nguyên sâu kín, huyền diệu mà từ đó vạn vật có danh tính, có hình thể được sinh ra. Đạo là thực thể vật chất của khối “hỗn độn”, “mập mờ”, “thấp thoáng” không có đặc tính, không có hình thể, nhìn không nhìn thấy, nghe không nghe thấy, bắt không bắt được, chẳng thể gọi tên. Nó tồn tại bất luận con ngườinhận thức được hay không. Ở khía cạnh bản thể luận, khái niệm “đạo” của Lão tử được đề cập ở ba khía cạnh là thể, tướng và dụng. Những quan điểm này của Lão tử, nếu gạt bỏ những điểm hạn chế về thế giới quan và lập trường duy tâm, đã phần nào tiêu biểu cho cho những quan niệmbiện chứng đầy tinh tế và bí hiểm của người phương đông. Quan điểm này vừa thể hiện quan điểm trực quan nguyên sơ của người trung quốc cổ đại nhưng lại hàm chứa trong đó những đoán định, cảm nhận sâu sắc về sự tồn tại và biến hoá của vũ trụ, điều chỉ xuất hiện khi tư duy trừu tượng đạt tới trình độ cao. Học thuyết Âm dương - Ngũ hành lại hướng đến việc lý giải sự tồn tạicủa thế giới trong sự tương tác của các yếu tố tự nhiên trong thế giới mà thành. Các quan điểmnày hướng tới việc phân tích sự tác động của các yếu tố cơ bản có trong tự nhiên tạo thành sự vật (học thuyết ngũ hành) hay là sự liên hệ, tương tác giữa hai mặt đối lập, hai thế lực vật chất cơ bản để tạo nên vũ trụ (học thuyết âm dương).
Nho giáo, với nội dung chủ yếu thiên về giải quyết các vấn đề chính trị- xã hội và con người nên đưa ra những quan niệm khác khi lý giải về bản nguyên của tồn tại. Theo Mạnh Tử cái nội tâm chủ quan bên trong là bản thể tự tại, thuộc về tiên nghiệm, vượt ra khỏi phạm trù không gian, thời gian, vật chất, vận động. Đạt đến đó là con người có thể thông quan với trời đất, hoá sinh ra vạn vật. Tâm là cái chủ thể trong mỗi con người, là cái thần linh có đủ mọi lý mà trời phú cho con người để hiểu biết, ứng đối với vạn vật, vạn sự. Tâm có quan hệ với Tính. Tính là cái lý hoàn toàn của tâm. Đem cái tâm tính ấy mà ứng xử với vạn vật bên ngoài là tình. Chỉ có cái tâm đó thì mới biết được tính của ta và của vạn vật..v.v..
Các nhà triết học ở Ấn độ cổ đại ban đầu lại quan niệm bản thể của thế giới chính là các vị thần có tính chất tự nhiên. Họ tin tưởng, gửi gắm tâm hồn, cuộc sống tự nhiên của mình vào thế giới các vị thần ấy. Về sau, quan niệm tự nhiên về các vị thần dần dần mờ nhạt, thay vào đó “là những nguyên lý trừu tượng duy nhất tối cao được coi là nguồn gốc vũ trụ và đời sống con người. Đó là “thần sáng tạo tối cao” Brahman và một tinh thần tối cao Brahman”. Bước chuyển về mặt nhận thức này của người Ấn độ cổ thể hiện bước chuyển từ thế giới quan thần thoại (với việc giải thíchtính muôn vẻ, cụ thể của thế giới qua biểu tượng các vị thần có tính chất tự nhiên) đến thế giớiquan triết học (bằng việc dần phát hiện ra cái chung, cái bản chất như là bản nguyên tối cao của thế giới).
2.2. Những phạm trù cơ bản về bản thể luận trong triết học Phật Giáo
2.2.1. Quan niệm về “Tâm”, “Chân như - Thực tướng”, “Pháp”, “nhân duyên”, “sắc - không”
Theo quan niệm của phật giáo, bản thể là căn bản tự thể của các pháp, mà pháp là từ chỉ chung hết thảy mọi sự vật, hiện tượng, dù là to nhỏ, hữu hình, vô hình, chân thực, hư vọng. Từ bản thểhay chân không, do vô minh, vọng động mà xuất hiện chúng sinh, các chúng sinh sau khi giải thoát lại trở về hoà nhập với bản thể tuyệt đối này. Bản thể được hiểu là Tâm. Đây chính là bản chất tồn tại của thế giới. Cái Tâm ban đầu vốn tròn đầy, yên tĩnh, chưa xao động. Bản thể của Tâm được ví như mặt nước lặng trong, do gió thổi (vọng tâm sinh khởi) mà tạo ra sóng to, sóng nhỏ, bọt, bong bóng… Gió ngừng thổi thì sóng hết, bọt tan chúng lại trở về với mặt nước yên lặng. Đó chính là bản thể của nó. Vậy Tâm là cái bất biến, có sẵn, không thay đổi. Những biểu hiện biến đổicủa tâm là do có tác động từ bên ngoài, có sự tiếp xúc của “lục căn” (cơ quan cảm giác chủ quan) với “lục trần” (thế giới khách quan) làm xuất hiện tâm với tính cách là ý thức chủ quan làm tâm xao động, chạy theo cái ảo, giả mà sinh ra “tham”, “sân”, “si”... Phật giáo còn đưa ra quan niệm “Nhân duyên” như là một yếu tố cấu thành nên tồn tại. Theo quan niệm của phật giáo, tất cả các sự vật, hiện tượng tồn tại trong vũ trụ từ cái vô cùng nhỏ đến cái vô cùng lớn đều không thoát khỏi sự chi phối của luật nhân duyên. Nhân duyên là những điều kiện cần thiết để phát triển.
2.2.2. Tư tưởng về “Vô ngã”, “ Vô thường”
Tư tưởng về bản thể luận của triết học Phật giáo còn được thể hiện qua các tư tưởng: “vô ngã” , “ vô thường”. Phật dạy vạn vật chuyển biến không ngừng trong từng satna (từng giây, từng phút. Thậm chí chỉ bằng cái nháy mắt). Từ con người cho đến vũ trụ vạn vật đều vận hành theo quy luật: thành, trụ, hoại, không (hoặc sinh, trụ. dị, diệt) được ví như bốn mùa xuân, hạ, thu, đông hay sinh, già, bệnh, chết. Trong bốn thời kỳ đó, thời kỳ Trụ lại là hết sức ngắn ngủi, chỉ bằng một satna. Tức là mọi hiện tượng đang tồn tại thực tế trước mắt không phải là cố định mà ở trên một dòng biến đổi thường xuyên, vĩnh viễn vô thủy, vô chung. Vì thế gian vô thường nên mọi vật đều vô tự tính (không có tự tính hay là không có bản thể riêng). Đó chính là sự vô ngã (anatman) ở con người. Phủ nhận Atman và thuyết linh hồn vĩnh cửu của Upanishad, Phật giáo cho rằng không có một cái ngã thường hằng, bất biến ở con người và vạn vật trong vũ trụ. Trong dòng chảy của đời sống, con người chỉ là tập hợp của ngũ uẩn thập nhị sứ, thập bát giới tạo thành cái ngã giả tạm với hai phần: thân và tâm. Thân là sự kết hợp của tứ đại (địa, thuỷ, hoả, phong). Tâm là sự phối hợp của sáu căn tiếp xúc với sáu trần và sáu thức phân biệt được chia thành bốn loại: thọ, tưởng, hành, thức. Các yếu tố đó kết hợp, luân chuyển cho nhau mà tạo thành. Khi nhân duyên đầy đủ thì hợp thành, khi nhân duyên hết thì tan rã. .
No comments:
Post a Comment