Làm thế nào thực hiện
một tôn giáo đại đồng
Bài nói chuyện của Swâmi Vivekânanda tại nhà thờ phổ-độ ở
Pasadena, California vào ngày 28 tháng giêng năm 1900 (1)
QUÁCH BỬU LỘC dịch Việt ngữ
Đối với trái tim nhân lọai, không có sự tìm tòi nào
đáng quan tâm hơn là việc nó đem lại cho chúng ta ánh sáng của Thượng Đế. Dù ở
quá khứ hay trong hiện tại, không có công trình nghiên cứu nào mà con người đã
dành nhiều sức lực như là công trình nghiên cứu về linh hồn, Thượng Đế và số
phận của con người. Dù ta bị cuốn hút vào sinh họat hằng ngày, trong những tham
vọng, trong công việc thì thỉnh thoảng vẫn có , ngay cả ở giữa lúc đấu tranh dữ
dội nhứt, một thời gian ngừng nghĩ; tâm dừng lại và muốn biết điều gì đó bên
kia thế giới. Đôi khi tâm thoáng thấy một vương quốc vượt ngòai tầm giác quan
và nó cố gắng đến được vương quốc ấy. Điều đó đã xảy ra ở mọi thời gian và ở
mọi nước. Con người muốn thấy thế giới bên kia, muốn phát triển. Tất cả những
điều mà ta gọi là tiến bộ, tiến hóa, luôn luôn được đo lường bằng công cuộc
nghiên cứu duy nhất này, bằng sự tìm hiểu về định mạng con người, sự tìm kiếm
Thượng Đế.
Giống như ở
các quốc gia khác nhau, những cố gắng của chúng ta trong lãnh vực xã hội thể hiện
bằng những tổ chức xã hội khác nhau, thì sự mâu thuẫn về phần tâm linh nơi con
người được biểu lộ bởi các tôn giáo khác nhau. Y như những tổ chức xã hội khác
nhau luôn luôn đối chọi lẫn nhau, gây chiến liên tục thì những đoàn thể tâm
linh cũng đã thường xuyên tranh đấu, không ngừng tranh cải với nhau. Những ai
thuộc một tổ chức xã hội đặc biệt đòi hỏi chỉ riêng cho họ cái quyền được sống,
và khi mà họ còn có thể, họ sử dụng quyền này gây thiệt hại cho kẻ yếu. Chúng
ta biết rằng ngay đúng vào thời điểm này một cuộc tranh chấp khốc liệt về vấn đề
đó tạo nên hỗn loạn tại Nam Phi. Tương tợ như vậy, mỗi một giáo phái đòi hỏi
cho họ đặc quyền duy nhất về sự sống. Do đó chúng ta thấy rằng tôn giáo, tuy đã
mang đến cho con người nhiều điều hữu ích hơn mọi thứ khác trên đời, cũng đã
đem lại cho con người nhiều điều tồi tệ. Không có gì làm nhiều cho hòa bình và
tình thương hơn là tôn giáo, cũng không có gì gây nên những sân hận không nguôi
như là tôn giáo. Không có gì làm nhiều cho tình huynh đệ đại đồng giữa con người
với nhau hơn là tôn giáo; cũng không có gì tạo nên những ác tâm hại người thật
tàn nhẫn như là tôn giáo. Không có gì đã xây dựng nhiều tổ chức từ thiện, nhiều
bệnh viện cho con người và ngay cả cho lòai vật hơn là tôn giáo, và không có gì
ngập tràn thế giới bằng biển máu hơn là tôn giáo.
Chúng ta biết
rằng dưới bề mặt lúc nào cũng có một số luồng tư tưởng, lúc nào cũng có những
nhóm người, những triết gia,những người làm công việc đối chiếu các tôn giáo,
đã và đang luôn cố gắng dẫn dắt các giáo phái ly khai vả bất hòa tới sự hòa đồng.
Tại một số nước, những cố gắng này đã thành công tuyệt đỉnh, nhưng ta có thể
nói rằng, trên bình diện thế giới, những cố gắng này đã thất bại. Một số tôn
giáo đến với chúng ta từ thời thượng cổ, thấm nhuần tư tưởng là phải để cho mọi
giáo phái hiện diện. Đối với những tôn giáo này, trong mỗi một giáo phái đều có
một ý nghĩa, một tư tưởng lớn đã bám rễ sâu dày; vì thế mọi giáo phái đều cần
thiết hữu ích cho thế giới và cần phải được khuyến khích. Vào thời đại chúng ta, ý tưởng này được chấp nhận,
và thỉnh thoảng người ta cố gắng đem áp dụng nó vào trong thực tế. Những dự
định này luôn luôn không thành công như chúng ta mong muốn, luôn luôn không
hiệu quả như đúng ra nó phải được hiệu quả. Đôi khi, chúng ta còn tìm thấy ngay trong nỗi thất
vọng của chúng ta là chúng ta còn tranh luận về vấn đề này nhiều hơn thế nữa.
Nếu bây giờ chúng ta để sang một bên sự thảo luận
về tín điều và tự đặt mình theo quan điểm hợp lý, trước tiên chúng ta thấy rằng
tất cả các nền tôn giáo lớn của thế giới đều chứa đựng một sức sống vĩ đại. Một
số người nói rằng họ không biết gì hết, nhưng sự vô minh không thể được xem là
điều biện hộ. Người nào nói là: “ tôi
không biết chuyện gì xảy ra ở thế giới bên ngoài, cho nên điều gì xảy ra tại
thế giới này là không có”, thì không thể được tha thứ. Những ai trong quý
vị có quan tâm tới sự tiến hóa của tư tưởng tôn giáo trên toàn cầu biết rõ là
không một tôn giáo lớn nào của thế giới bị khai tử; tốt hơn thế nữa, mỗi một
tôn giáo lớn đều đang phát triển. Các tín hữu Thiên Chúa giáo gia tăng, các tín
đồ Hồi giáo ngày càng nhiều hơn, những người Ấn giáo ngày càng đông. Các tín đồ
Do Thái giáo cũng gia tăng; trong lúc lan tràn khắp nơi trên thế giới, và gia
tăng nhanh chóng, khối người Do Thái giáo phát triển không ngừng.
Trên thế giới chỉ có một tôn giáo, một tôn giáo duy
nhất trong số những tôn giáo lớn và cổ, đã bị suy thoái, đó là Bái Hỏa giáo
(Zoroastrisme), tôn giáo của những người Ba Tư thuở xưa (Perse).
Vào lúc mà Hồi giáo chinh phục đất nước
của họ, vài trăm ngàn người “ Perse” này đã tới tỵ nạn tại Ấn Độ, một số ở
lại đất nước Ba Tư cổ. Nhóm người ở lại đã tan rã trước sự tiếp tục truy hại của
những người Hồi, và họ còn lại không quá 10,000 người. Tại Ấn, họ có khoảng
70,000 người, nhưng con số này không gia tăng. Một lý do đầu tiên về sự việc
này là họ không tìm cách truyền đạo. Vả lại, số
dân ít ỏi này sống tại Ấn đã bị ngăn cản phát triển bởi tập quán hủ bại kết hôn
giữa những anh chị em họ với nhau. Ngòai trường hợp ngọai lệ đó, tất cả các tôn giáo lớn đều sống,
mở mang và luôn luôn quy tụ thêm nhiều tín đồ. Chúng ta cần nhớ rằng các nền
tôn giáo lớn đều rất là cổ xưa; không một tôn giáo lớn nào được thành lập vào
thời đại chúng ta. Chúng ta cũng cần nhớ rằng tất cả các tôn giáo đã sinh ra
trong đất nước nằm giữa sông Hằng (Gange) và sông Euphrate; không một tôn giáo
lớn nào ra đời tại châu Âu, không một tôn giáo lớn nào sinh ra tại châu Mỹ; Tất
cả đều có nguồn gốc châu Á và thuộc vào phần đất này của địa cầu chúng ta.
Nếu điều mà
những nhà bác học nói là đúng- rằng sự sống sót của lòai biết thích nghi nhất với
môi trường tạo thành nên sự chọn lọc -các tôn giáo ấy, bởi chính sự kiện là
chúng vẫn còn tồn tại, chứng minh là những tôn giáo đó thích hợp cho một số người;
có một lý do để mà những tôn giáo này sinh tồn, đó là chúng đã đem tới sự tốt
lành cho nhiều người. Hãy xem Hồi giáo, nó lan tràn biết là bao trong một vài
vùng đất của Nam Á, nó tràn ngập châu Phi nhanh chóng làm sao ấy. Phật giáo tiếp
tục không ngừng lan rộng tại Trung Á. Tôn giáo Bà La Môn cũng như Do Thái giáo
không tìm cách (làm người khác) cải đạo; dù vậy, một số sắc dân khác nhập môn dần
dần vào Bà La Môn giáo, chấp nhận và thuận tùng theo những thói quen và tập
quán của người Bà La Môn. Thiên Chúa giáo, như quý vị biết rõ, cũng bành trướng
phạm vi của họ, nhưng tôi không chắc rằng những kết quả đạt được theo chiều hướng
đó cũng quan trọng tương ứng với sức lực đã bỏ ra. Những cố gắng nhiệt tình truyền
bá đức tin Ki-tô chịu một khiếm khuyết rất nghiêm trọng, mà vả lại ta cũng tìm
thấy điều đó trong các cơ cấu Tây phương, đó là bản thân của tổ chức hấp thụ hết
90% năng lượng mà người ta cung cấp cho bộ máy; Có quá nhiều tổ chức. Thuyết đạo
luôn là lãnh vực của người Châu Á. Các dân tộc Tây phương rất giỏi trong việc tổ
chức, thành lập cơ cấu xã hội, quân đội, chính phủ, v.v. nhưng trong việc truyền
đạo thì họ thật là lạc hậu so với những dân tộc châu Á. Dân châu Á luôn là
chuyên gia trong việc phổ-độ. Họ biết làm thế nào để tiến hành và không sữ dụng
một tổ chức quá phức tạp.
Như vậy tất
cả các tôn giáo lớn hiện hữu, phát triển và ngày càng lan rộng là một thực tế
trong lịch sử hiện đại của lòai người. Sự kiện này chắc chắn có một ý nghĩa. Nếu
một đấng Tạo Hóa toàn tri và trọn lành đã muốn rằng một trong những tôn giáo
này còn lại và những tôn giáo khác biến mất thì điều này đã xảy ra từ lâu. Nếu
đúng là một trong những tôn giáo này là chánh và những tôn giáo khác là tà thì chánh
giáo đã chinh phục toàn thế giới. Nhưng sự thực không phải vậy. Không một tôn
giáo nào chiếm được thế giới. Mọi tôn giáo lúc thì phát triển, lúc thì suy
thóai. Bây giờ quí vị hãy nghĩ tới điều này: Trong quốc gia của quý vị có hơn
60 triệu cư dân nhưng chỉ có 21 triệu người là tuyên bố tin theo một tôn giáo
nào đó; sự tiến bộ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Nếu làm thống kê, thì rất
có thể là ở khắp các quốc gia, người ta sẽ thấy rằng các tôn giáo khi thì tiến triển
khi thì thụt lùi.
Mặt khác,
con số các giáo phái gia tăng không ngừng. Nếu một trong những tôn giáo đã có
quyền khẳng định là nó có tất cả sự thật và rằng Thượng Đế đã ban trao tất cả sự
thật trong một quyển kinh nào đó, thì tại sao lại có quá nhiều giáo phái? Không
một nửa thế kỷ nào mà không xuất hiện thêm giáo phái mới với cùng một quyển
sách. Nếu Thượng Đế đã để tầt cả sự thật vào trong một số kinh sách nào đó,
Ngài sẽ không cho chúng ta những kinh sách này để mà chúng ta tranh luận về ý
nghĩa của những đoạn kinh văn. Nhưng hình như là điều đó đang xảy ra. Tại sao?
Cho dù Thượng Đế đã ban cho một quyển kinh chứa đựng tất cả sự thật về tôn
giáo, mục đích cũng không đạt được bởi vì không một ai hiểu được quyển kinh đó.
Hãy lấy quyển Kinh Thánh và tất cả những giáo phái hiện hữu thuộc Thiên Chúa
giáo làm thí dụ; Cùng một đoạn kinh văn, mỗi giáo phái có cách giải thích riêng
; giáo phái nào cũng đều quả quyết là chỉ có họ là hiểu và khẳng định là tất cả
những lời giải thích khác là sai. Và các tôn giáo khác cũng đều như thế. Hồi
giáo có nhiều giáo phái, Phật giáo lại có nhiều tông, còn Ấn Độ giáo thì có
hàng trăm chi. Nếu tôi lưu ý quý vị vấn đề này, là để chứng minh rằng tất cả mọi
cố gắng làm cho toàn nhân lọai suy nghĩ giống nhau trong lĩnh vực tâm linh đã
thất bại và sẽ mãi mãi thất bại. Ai đó đưa ra một lý thuyết mới, ngay cả trong
thời đại chúng ta, sẽ nhận ra rằng các môn sanh sẽ phân ra thành 20 phái mới nếu
ông rời xa họ 20 cây số. . Quý vị không ngừng nhận thấy điều này. Quý vị không
thể làm cho mọi người chấp nhận cùng chung ý kiến; Đây là một sự kiện, và tôi
cám ơn Trời là nó như vậy.
Tôi không chống đối bất cứ giáo phái nào. Tôi lấy
làm sung sướng là có nhiều giáo phái hiện hữu và chỉ mong mỏi là luôn luôn có
nhiều thêm giáo phái. Tại sao? Lý do thật đơn giản: nếu bạn và tôi và tất cả
mọi người tại đây có những ý nghĩ giống nhau thì sẽ không còn một chút ý nghĩ
nào mà chúng ta có thể có. Chúng ta biết rằng để tạo ra sự chuyển động cần phải
có hai lực gặp nhau, đụng nhau. Chính sự va chạm của những tư tưởng, sự đa dạng
của những tư tưởng làm nảy sinh ra tư tưởng. Nếu tất cả
chúng ta nghĩ giống nhau, chúng ta sẽ như là những xác ướp Ai Cập trong viện bảo
tàng, cái này đối diện cái kia, với một cái nhìn trống rỗng, vô thần; Chúng ta
chỉ là thế thôi sao! Những xóay nước, những luồng xoáy ngược chỉ có trong một
dòng nước sống động và chảy xiết. Không có những xóay nước trôn ốc trong nơi nước
đọng và chết. Khi mà những tôn giáo chết đi thì các giáo phái cũng không còn nữa.
Đó sẽ là sự bình yên, hòa điệu của những nấm mồ. Nhưng khi nào mà nhân lọai còn
suy nghĩ thì còn giáo phái. Sự đa dạng là dấu hiệu của sự sống, và nó cần phải
hiện hữu. Mong sao có bao nhiêu người thì có ngần ấy giáo phái để trong tôn
giáo, mỗi người có một phương pháp cá nhân, một đường lối suy tư thích hợp cho
riêng họ.
Trong thực
tế, điều này đã xảy ra rồi. Mỗi người trong chúng ta muốn suy nghĩ theo cách của
mình, nhưng hiện tượng rất là tự nhiên này lại không ngừng bị ngăn cản và tiếp
tục bị cản ngăn. Nếu người ta không trực tiếp dùng sắt và lửa thì người ta lại
tìm nhiều phương tiện khác để can thiệp. Hãy lắng nghe những điều của một trong
những người giảng đạo giỏi nhứt ở Nửu Ước nói: ông giảng rằng phải chinh phục
những người Phi Luật Tân vì đó là phương cách duy nhất Ki Tô hóa họ ! Tuy những
người Phi Luật Tân này đã là người Công giáo, thế nhưng vị mục sư này muốn họ cải
đạo thành người "presbytérien" ( 1 hệ phái Tin Lành quan hệ với xứ Écosse) và để đạt được mục đích ông sẳn
sàng gây đổ máu và trút lấy trách nhiệm lên người dân của ông.Thật là kinh khủng
! Và người này lại là một trong những người giảng đạo uy tín nhất của quý vị, một
trong những công dân biết nhiều thông tin hơn ai hết. Hãy nghĩ tới tình trạng
thế giới như thế nào để mà một người như thế không xấu hổ lại diễn thuyết trước
công chúng những điều phi lý như vậy; và hãy nghĩ tới hiện trạng thế giới ra
làm sao mà những tín đồ vổ tay hoan hô những lời lẽ như thế! Văn minh là thế ư?
Đó là bản năng khát máu lâu đời của con cọp, của người tàn bạo, của người dã
man tái xuất nữa với những tên mới, trong những điều kiện mới. Việc này có thể
nào khác đi chăng? Nếu hiện nay chúng ta đang sống trong tình trạng như vầy thì
hãy nghĩ tới bao nỗi kinh hoàng mà xưa kia thế giới đã trải qua, khi mà mỗi một
giáo phái cố đánh tan những giáo phái khác thành từng mãnh với mọi phương tiện
sẵn có. Lịch sữ minh chứng cho chúng ta điều ấy: con cọp trong chúng ta chỉ thiếp
đi chớ không chết. Ngay khi mà thời cơ tới, nó chồm lên giương nanh múa vuốt y
như ngày xưa. Kề bên thanh gươm, cạnh bên những vủ khí vật chất, còn có những
thứ vủ khí khủng khiếp hơn nhiều : là sự khinh miệt, lòng hận thù , sự ruồng bỏ
của xã hội. Đó là những điều hết sức ghê tởm mà hiện nay ta có thể trút lên đầu
những ai không đồng tư tưởng. Nhưng tại sao mọi người phải nghỉ y như chúng ta?
Tôi không thấy có lý do nào cả. Nếu tôi là người bẩm sinh có lý trí, tôi phải
vui mừng là những người khác không hoàn toàn nghĩ giống như tôi. Tôi không muốn
sống trong một đất nước tương tự như một nghĩa trang. Tôi muốn là một con người
trong thế giới của những con người. Những người suy nghĩ cần những ý kiến khác
biệt. Những sự khác biệt này là bằng chứng của tư tưởng. Nếu tôi là người có tư
duy, chắc chắn tôi muốn sống với những ai có tư duy, ở một nơi mà các ý kiến
khác nhau. Người ta có thể tự hỏi làm sao mà tất cả các ý kiến khác nhau này đều có thể đúng ? Nếu việc này là
đúng, thì sự xác nhận ngược lại phải sai . Làm thế nào mà hai giáo thuyết xung
khắc với nhau mà có thể cùng một lúc đúng cả ? Đây cũng là câu hỏi mà tôi thử tự
trả lời. Nhưng trước tiên tôi xin hỏi quý vị một câu
khác : Có phải thật sự là tất cả những tôn giáo trên
thế giới đối nghịch với nhau ? Tôi không muốn đề cập tới các hình
thức bên ngoài bao phủ những tư tưởng lớn. Tôi không muốn bàn tới những đền
đài, văn tự, nghi lễ, kinh sách, … khác biệt của mỗi tôn giáo; Tôi muốn nói tới
cái hồn sâu kín nơi mỗi một tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều mang bên trong một
linh hồn, và cái hồn này có thể không giống với những linh hồn mà các tôn giáo
khác chứa đựng, nhưng có đúng là có một sự mâu thuẫn ? Chúng nó trái
ngược nhau hay là bổ túc cho nhau ? Vấn đề là đây. Thuở còn
thơ ấu, tôi đã lưu ý đến vấn đề này và đã tôi đã nghiên cứu nó suốt cả cuộc đời.
Vì cái kết luận mà tôi đã đi tới được có thể làm cho quý vị quan tâm nên tôi sẽ
trình bày với mọi người. Tôi tin rằng các tôn giáo không mâu
thuẩn với nhau mà bổ khuyết cho nhau. Có thể nói như vầy là mỗi tôn giáo chiếm
giữ một phần của chân lý vĩ đại và hiến dâng tất cả tinh lực để sống và biểu hiện
cái phần đặc biệt này của chân lý. Vậy những cố gắng của họ tương trợ với nhau
và không lọai trừ lẫn nhau, đó là nguyên tắc. Các hệ thống
nâng đở bồi bổ nối tiếp nhau; trong mỗi một hệ thống bàn bạc một tư tướng lớn,
và những lý tưởng phải thêm vào những lỳ tưởng. Cứ như thế mà nhân lọai tiến bộ.
Con người không bao giờ đi từ một sai lầm tới một
sự thật, mà từ một sự thật tới một sự thật khác; đi từ một sự thật kém cao tới
một sự thật cao hơn, nhưng không bao giờ từ sự sai lầm tới sự thật. Đứa con có
thể phát triển hơn người cha, nhưng không vì thế người cha mất đi mọi ý nghĩa.
Đứa con tượng trưng cho người cha và điều gì đó hơn thế nữa. Có phải vì tình
trạng hiểu biết của quý vị hiện nay cao hơn thuở còn bé mà quý vị phải chối
bỏ thời thơ ấu của quý vị không ? quý vị nhìn nó bằng sự khinh bỉ và tuyên bố
là nó đã thật là vô ích ? Không, bởi vì tình trạng hiện nay của quý vị tương
ứng với những gì quý vị đã biết thuở ấu thơ và thêm vào các kiến thức mới nữa.
Chúng ta cũng biết rằng ta có thể thấy cùng một vật dưới những góc cạnh hầu như trái ngược nhau, nhưng không vì vậy mà những hình ảnh khác nhau này không thể hiện cùng một vật duy nhất. Giả thiết là một người đi về hướng mặt trời và chụp hình ở mỗi chặng hành trình. Khi trở về , anh ta sẽ mang thật nhiều hình mà anh có thể cho quý vị xem. Sẽ không có hai hình giống nhau, tuy nhiên mọi người sẽ chấp nhận đó là những hình của cùng một mặt trời được chụp dưới những góc cạnh khác nhau. Xin hãy chụp ngôi nhà thờ này bốn tấm hình từ bốn phía khác nhau: các hình sẽ cho thấy nhiều mặt khác nhau nhưng tất cả chỉ biểu hiện cùng ngôi thánh đường này. Cũng thế, tất cả chúng ta đều nhìn vào sự thật, nhưng chúng ta tự đặt mình vào những quan điểm khác nhau biến đổi tùy theo nguồn gốc, giáo dục, môi trường, v.v...Chúng ta chú tâm nhìn vào sự thật, chúng ta hấp thụ nó nhiều chừng nào mà hoản cảnh cho phép, chúng ta hiểu sự thật với trí thông minh của chúng ta, hiểu thấu sự thật bằng tâm, tô màu cho sự thật bằng con tim của mình. Chúng ta có thể biết được sự thật chỉ những gì được tiết lộ, chỉ những gì mà chúng ta có thể tiếp thu. Chính điều ấy phân biệt người này với người khác và đôi khi chính nó làm nảy sinh ra những ý kiến bất đồng; tuy vậy tất cả chúng ta đều thuộc về Đạo.
Cho nên tôi nghĩ rằng tất cả các tôn giáo này là những lực lượng khác nhau nằm trong thiên cơ, phục vụ cho lợi ích của nhân loại; không một tôn giáo nào trong số ấy có thể chết, không tôn giáo nào có thể bị tiêu diệt. Giống như quý vị không thể triệt tiêu một sức mạnh của thiên nhiên, cũng như quý vị không thể hủy diệt bất cứ một sức mạnh tâm linh nào cả. Quý vị đã thấy rằng mỗi tôn giáo đều sống động. Có khi nó thụt lùi hay có lúc nó tiến bộ. . Vào một thời đại nào đó, nó bị tước lấy nhiều vật trang sức; ở một thời đại khác, nó có thể lại được điểm tô bởi đủ vật trang hoàng, nhưng dù thế nào đi nữa, linh hồn vẫn luôn hiện diện và không bao giở có thể mất đi. Lý tưởng mà mỗi tôn giáo thể hiện, tiến tới trước một cách thông minh.
Chúng ta cũng biết rằng ta có thể thấy cùng một vật dưới những góc cạnh hầu như trái ngược nhau, nhưng không vì vậy mà những hình ảnh khác nhau này không thể hiện cùng một vật duy nhất. Giả thiết là một người đi về hướng mặt trời và chụp hình ở mỗi chặng hành trình. Khi trở về , anh ta sẽ mang thật nhiều hình mà anh có thể cho quý vị xem. Sẽ không có hai hình giống nhau, tuy nhiên mọi người sẽ chấp nhận đó là những hình của cùng một mặt trời được chụp dưới những góc cạnh khác nhau. Xin hãy chụp ngôi nhà thờ này bốn tấm hình từ bốn phía khác nhau: các hình sẽ cho thấy nhiều mặt khác nhau nhưng tất cả chỉ biểu hiện cùng ngôi thánh đường này. Cũng thế, tất cả chúng ta đều nhìn vào sự thật, nhưng chúng ta tự đặt mình vào những quan điểm khác nhau biến đổi tùy theo nguồn gốc, giáo dục, môi trường, v.v...Chúng ta chú tâm nhìn vào sự thật, chúng ta hấp thụ nó nhiều chừng nào mà hoản cảnh cho phép, chúng ta hiểu sự thật với trí thông minh của chúng ta, hiểu thấu sự thật bằng tâm, tô màu cho sự thật bằng con tim của mình. Chúng ta có thể biết được sự thật chỉ những gì được tiết lộ, chỉ những gì mà chúng ta có thể tiếp thu. Chính điều ấy phân biệt người này với người khác và đôi khi chính nó làm nảy sinh ra những ý kiến bất đồng; tuy vậy tất cả chúng ta đều thuộc về Đạo.
Cho nên tôi nghĩ rằng tất cả các tôn giáo này là những lực lượng khác nhau nằm trong thiên cơ, phục vụ cho lợi ích của nhân loại; không một tôn giáo nào trong số ấy có thể chết, không tôn giáo nào có thể bị tiêu diệt. Giống như quý vị không thể triệt tiêu một sức mạnh của thiên nhiên, cũng như quý vị không thể hủy diệt bất cứ một sức mạnh tâm linh nào cả. Quý vị đã thấy rằng mỗi tôn giáo đều sống động. Có khi nó thụt lùi hay có lúc nó tiến bộ. . Vào một thời đại nào đó, nó bị tước lấy nhiều vật trang sức; ở một thời đại khác, nó có thể lại được điểm tô bởi đủ vật trang hoàng, nhưng dù thế nào đi nữa, linh hồn vẫn luôn hiện diện và không bao giở có thể mất đi. Lý tưởng mà mỗi tôn giáo thể hiện, tiến tới trước một cách thông minh.
Nền tôn
giáo đại đồng mà các triết gia và những người khác nữa, đã ước mơ ở khắp quốc
gia đã có rồi. Nó ở nơi đây. Cũng y như tình huynh đệ đại đồng của nhân loại,
tôn giáo đại đồng đã hiện hữu. Ai trong quý vị đã có thể làm những cuộc viễn
du mà không tìm thấy ở mỗi dân tộc những người anh và người chị ? Tôi đã tìm thấy
họ ở khắp nơi trên thế giới. Tình huynh đệ đã có rồi, chỉ vì có nhiều người
không nhận ra nó và còn làm nó trở nên hỗn loạn khi lớn tiếng đòi hỏi những
tình huynh đệ mới. Nếu những thầy tu hay
những ai chịu trách nhiệm rao giảng đức tin các tôn giáo khác nhau chỉ muốn
ngừng thuyết đạo trong vài khoảnh khoắc, chúng ta sẽ nhận ra tôn giáo này. Nó
đang tại đây, nhưng những người này làm nó tiếp tục rối tung lên bởi vì đó là
quyền lợi của họ. Ở mọi nước, quý vị sẽ nhận thấy rằng các thầy tu rất bảo thủ.
Tại sao họ lại như vậy ? Rất ít thầy tu hướng dẫn quần chúng; đa phần lại bị
quần chúng dẫn dắt, làm nô lệ và tôi tớ cho quần chúng. Nếu quý vị nói trời
khô ráo, họ sẽ nói như thế với quý vị, và nếu quý vị nói trời tối, họ sẽ nói
trời tối. Nếu quần chúng tiến về phía trước, các thầy tu phải tiến lên. Họ
không thể nào ở lại phía sau. Cũng thế, trước khi trách các thầy tu- như ta
thường có thói quen như thế - quý vị phải tự trách lấy mình. Quý vị chỉ hưởng
được những gì mà quý vị xứng đáng có. Số phận của ông thầy tu muốn trao cho
quý vị những ý tưởng mới mẻ và tiên tiến và làm cho quý vị tiến bộ sẽ ra sao
? Con cái ông ta có thể sẽ chết đói, còn bản thân ông cũng rách rưới. Ông ta
cũng bị chi phối bởi những qui luật thế tục như quý vị. “ Nếu quý vị muốn đi tới, chúng ta hãy tiến tới trước”, đó là điều
ông ấy nói với quý vị. Đương nhiên có những người mà tâm hồn đặc biệt không để
cho dư luận quẩn chúng làm cho sợ hãi. Họ thấy được sự thật và chỉ mến chuộng
lẽ thật mà thôi. Sự thật đã xâm chiếm họ, sở hửu chủ lấy họ, có thể nói như
vậy, và họ không thể nào làm khác hơn là tiến về trước. Những người này không
bao giờ nhìn về phía sau, đối với họ không có quần chúng hay là đám đông; đối
với họ, chỉ có Thượng Đế là hiện hữu, Ngài là Ánh Sáng phía trước và họ đi theo
Ánh Sáng này.
Tôi đã gặp một người “mormon”
tại đất nước quí vị, đã cố gắng khiến tôi chấp nhận theo đạo ông ta. Tôi nói
với ông ấy: “ tôi rất tôn trọng các ý
kiến của anh, nhưng có vài điểm chúng ta không đồng ý với nhau. Tôi thuộc về
dòng tu còn anh lại tin vào sự đa thê. Tại sao anh không đi truyền đạo tại Ấn
độ ?” Anh ta hoàn toàn ngạc nhiên và trả lời tôi:
“
ông ủng hộ sự độc thân tuyệt đối, còn tôi thì chủ trương đa thê vậy mà ông lại
khuyên tôi tới đất nước ông ?
- Đúng thế,
bởi vì đồng hương của tôi sẵn sàng thích thú với mọi tư tưởng tôn giáo từ bất
cứ nguồn nào. Tôi mong là anh đi Ấn độ, đầu tiên bởi vì tôi hoàn toàn là người
ủng hộ có nhiều giáo phái, hơn nữa có rất nhiều người tại Ấn còn chưa tìm thấy
điều họ mong muốn trong bất cứ giáo phái nào đã hiện hữu. Bởi thế, họ chẳng muốn làm gì hết với tôn
giáo.
Tại khách sạn,
nơi mà thực đơn rất là phong phú, mọi người đều có cơ hội là có thể ăn được no
bụng. Bởi thế tôi mong rằng các giáo phái gia tăng khắp các nước để mà càng có
nhiều người có cơ hội hướng tới tâm linh. Không nên tin rằng con người không
chuộng tôn giáo, dù sao cũng không phải là ý kiến của tôi. Chính là những người
giảng đạo đã không có khả năng đáp ứng những điều mà con người đòi hỏi. Cũng
chính người này mà những thầy tu xem là vô thần hay duy vật hay bằng bất cứ
danh hiệu khác, có thể gặp một người nào đó mang tới sự thật mà anh ta cần tới,
và trở nên người mộ đạo nhứt nơi anh sinh sống. Chúng ta chỉ có thể ăn bằng
cách phù hợp với chúng ta. Chẳng
hạn như là chúng tôi, những người Ấn giáo, dùng ngón tay mà ăn. Các ngón tay
chúng tôi mềm dẻo hơn các ngón tay của quý vị. Bàn tay của quý vị không thể làm
được những điều như bàn tay của chúng tôi. Cho người ta ăn vẫn chưa đủ, mà mỗi
người cần phải ăn theo cách của mình. Có được những tư tưởng tâm linh chưa đủ
đâu, nó cần phải đến với mọi người bằng phuơng pháp thích hợp với mỗi cá nhân.
Cần phải nói chuyện với mọi người bằng tiếng nói riêng của họ, bằng ngôn ngữ
của tâm hồn họ và chỉ có thế ta có thể cho họ cái mà họ cần thiết. Khi một
người tới nói chuyện với tôi bằng tiếng nước tôi và dạy đạo cho tôi bằng ngôn
ngữ này, tôi hiểu và thấu triệt đạo lý ngay lập tức. Đây là một sự kiện quan
trọng.
Vậy thì chúng ta thấy rằng
nhân sanh có đủ loại và các trình độ căn trí khác nhau; Chúng ta cũng thấy được
trách nhiệm của tôn giáo đối với những việc này! Có người đưa ra hai hay ba chủ
thuyết rồi ham muốn tôn giáo của anh ta phải thỏa mản toàn nhân loại! Anh tiến
vào thế giới, vào trong cái sở thú vĩ đại này của Thương-Đế với một cái lồng nhỏ
trên tay, và la to : « Ông Trời
cả voi và tất cả mọi loài phải vào trong chiếc lồng này. Dù ta phải chặt voi
thành từng mảnh thì nó cũng phải vào lồng. ».Cũng có thể có một giáo
phái có vài tư tưởng hay và tuyên bố : « Tất cả mọi người phải vào đây! Nhưng lại không có đủ chỗ cho mọi
người. Không sao! Cứ cắt họ thành từng mảnh; nhét tất cả vào bằng mọi cách .
Tôi tin là những ai mà không vào thì sẽ bị đọa địa ngục. » Tôi chưa
bao giở gặp một nhà thuyết đạo cũng như giáo phái nào dừng lại trong giây lát để
tự hỏi : « tại sao nhân sanh
không nghe chúng ta .» Thay vì thế, họ thóa mạ và nói : « Những kẻ này hỏng cả rồi .» Họ
chẳng bao giờ tự hỏi : « tại sao nhân sanh không nghe theo lời
chúng tôi ?Bằng cách nào tôi có thể làm cho nhân sanh thấy được chân lý? Tại
sao tôi khộng thể nói đạo bằng ngôn ngữ của nhân sanh? Tại sao tôi không thể
làm nhân sanh sáng mắt ra ? » Dù thế họ cần phải được biết rõ hơn và
khi mà họ thấy là không ai nghe họ cả, thì nếu mà họ nguyền rũa ai thì đó chính
là bản thân họ mà thôi. Thế nhưng bao giờ cũng là lỗi của người khác! Họ không
bao giờ tìm cách làm cho giáo phái của họ đủ rộng lớn để mọi người có thể gia
nhập.
Vậy là chúng ta thấy ngay
tại sao một tinh thần hạn hẹp như thế lại có được, tại sao thành phần luôn muốn
là tổng thể, tại sao đơn vị nhỏ nhoi hữu
hạn luôn muốn là vô hạn. Hãy xem các tiểu giáo phái này, ra đời nhiều lắm vài
trăm năm, chính trong những bộ óc tuyệt đối có thể phạm sai lầm, lại ngạo mạn
quả quyết là suốt thông đạo lý khôn cùng. Hãy xem sự khoác lác này! Nếu như nó
chứng minh được điều gì, thì đó là tính cao ngạo của nhân loại. Không có gì
đáng ngạc nhiên hết là những sự kiêu căng như vậy lúc nào cũng dẫn đến sự thất
bại; nhờ ơn Trời; những sự ngã mạn luôn chấm dứt bằng sự thất bại. Trong cùng
loại ý tưởng này, các tín-hữu Hồi giáo luôn đi trước người khác : Những tiến
bộ nhỏ bé của họ được thực hiện bởi những đường gươm. Kinh “Coran” trong tay này và nghĩa trang thì
trong tay khác. “ Chấp nhận kinh Coran
hay là anh sẽ chết; Đây là lựa chọn duy nhất mà anh được phép làm!” Lịch sữ chỉ cho chúng ta
sự thành công vượt bực mà họ đã có được: trong 600 năm, không có gì có thể chống
lại, nhưng cái ngày mà họ phải ngừng lại đã đến. Những tôn giác khác muốn dùng
chung phương thức thì rồi cũng như thế.
Chúng ta thật sự là những
trẻ thơ, chúng ta luôn luôn quên bản chất của con người. Khi mà chúng ta mới bước
vào đời, chúng ta nghĩ rằng số mệnh của chúng ta phi thường, và không chi có thể
ngăn cản chúng ta tin tưởng vào điều ấy, nhưng khi già yếu, chúng ta lại suy
nghĩ khác đi. Các tôn giáo cũng thế. Thuở tuổi thanh xuân, lúc chúng vừa mới chớm
phát triển, chúng tưởng tượng là có thể cải tạo hoàn toàn tâm linh con người
trong vòng vài năm, giết chóc và tàn sát là đủ để dành được những tân tín đồ bằng
sức mạnh. Thế rồi họ thất bại, vậy nên họ bắt đầu nhìn thấy sự việc xác đáng
hơn. Lành thay, chúng ta thấy là các giáo phái này đã không thành công thực hiện
những dự tính ban đầu. Quý vị hãy thử tưởng tượng điểu gì sẽ xảy ra vào ngày
hôm nay cho nhân loại nếu một trong những giáo phái cuồng tín này đã thành công
thống trị toàn thế giới. Cám ơn Trời là họ đã thất bại!
Mỗi một giáo phái thể hiện
một sự thật vĩ đại; mỗi một tôn giáo tương ứng với một sự toàn hảo đặc biệt;
tương ứng với sự vật mà trong nó có linh hồn. Tôi lại nhớ đến một câu chuyện cổ
tích. Có một lần vài nữ yêu (ăn thịt người) có
thói quen là giết người và làm ác bằng đủ cách; nhưng người ta không thể diệt
trừ các nữ yêu này. Thế nhưng có một ngày có người phát hiện là các linh hồn của
các nữ yêu ở trong một số con chim, và ngày nào mà các con chim này còn sống
thì không có gì có thể hủy diệt các nữ yêu. Có thể nói rằng cũng giống như thế,
mỗi người chúng ta đều có một con chim có linh hồn; mỗi người đều có lý tưởng,
sứ mạng phải thực thi trong cuộc đời. Mổi một người là hiện thân của lý tưởng
nào đó, sứ mạng nào đó. Cho dù quý vị mất đi cái chi khác, thì không có gì có
thể tiêu diệt được các quý vị khi mà lý tưởng không bị đánh mất, sứ mạng không
bị hủy hoại. Sự giàu sang có thể đến với quý vị rồi tiếp theo lại ra đi, những
nổi bất hạnh có thể chất thành núi cao tới tận trời xanh, nhưng khi mà lý tưởng
của quý vị còn nguyên vẹn, thì không có gì có thể sát hại quý vị. Quý vị có thể
thấy bao năm tháng, thậm chí hàng trăm năm chất chồng; nếu như trong tim quý vị
sứ mạng này vẫn còn trẻ trung, tươi mát thì ai là người có thể giết chết quý vị? Nhưng nếu như
lý tưởng bị đánh mất, sứ mạng đã bị mai một thì không có gì có thể giải cứu quý
vị. Tất cả sự giàu sang và tất cả quyền lực của thế giới sẽ không cứu vản được
quý vị. Thế nhưng các dân tộc là gì nếu không là những kết tụ của nhiều cá nhân
? Mỗi dân tộc cũng vậy, trong sự hòa hợp của các giống dân, đều có một sứ mạng riêng phải hoàn thành; Ngày nào mà một dân tộc còn giữ được lý tưởng của mình thì
không có gì có thể làm tan biến dân tộc này; nhưng nếu nó chối bỏ sứ mạng
của mình trong cuộc đời và say mê với việc khác thì nó sẽ không tồn tại lâu dài
và rồi sẽ tiêu vong.
Các tôn giáo cũng sẽ giống
thế. Việc mà các cựu tôn giáo vẫn còn sống mãi đến hôm nay chứng tỏ rằng các
tôn giáo phải còn gìn giữ trọn vẹn vai trò thuộc về mình; mặc cho tất cả những
lỗi lầm, tất cả những khó khăn, tất cả những tranh cải, mặc cho tất cả những dạng
thức và hình ảnh đã được khắc ghi vào mình thì mỗi một tôn giáo đó đã gìn giữ
con tim thánh khiết của họ, một con tim đập, sống, hành động. Không một tôn
giáo nào trong số ấy đã lãng quên sứ mạng
trọng đại cũng là lẽ sống của họ. Thật là tuyệt vời khi nghiên cứu các sứ mạng
này. Hãy lấy thí dụ về Hồi giáo. Không có tôn giáo nào trên thế giới mà tín hữu
Ki-Tô thù hận hơn là Hồi giáo. Họ nghĩ rằng đó là hình thức tôn giáo xấu nhứt
trong lịch sử loài người. Nhưng ngay từ lúc mà một người trở nên tín đồ Hồi
giáo, thì cả Hồi giáo giang rộng vòng tay tiếp nhận anh như huynh đệ, không một
chút kỳ thị; đó là điều không có tôn giáo nào khác thực hiện. Nếu một trong những
người da đỏ Bắc Mỹ của các anh nhập môn vào đạo Hồi thì quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ sẽ không có chút nào phản đối mà ăn trưa với
anh ta. Nếu anh ta thông minh thì không có địa vị nào bị cấm đoán. Ngược lại tại
đất nước quý vị, tôi còn chưa hề thấy nhà thờ nào mà nơi đó người nô lệ da đen
và người da trắng có thể quỳ cầu nguyện cạnh bên nhau. Xin hãy suy nghĩ tới điều
này: Hồi giáo xem mọi giáo phái là bình đằng. Chính vì điều này mà quý vị thấy
Hồi giáo hoàn mỹ. Trong nhiều đoạn kinh “Coran”,
quý vị tìm thấy nhiều quan niệm về đời sống rất là nhục dục. Có gì quan trọng đâu! Điều mà tôn
giáo của Mahomet tới rao truyền cho thế giới chúng ta là tình huynh đệ thân ái
thực hành của những ai cùng chung tín ngưỡng này. Chính đây là yếu tố căn bản của
Hồi giáo; tất cả những quan niệm khác về trời, về cuộc đời, v.v. không phải là
Hồi giáo, những điều này chỉ là bổ sung cho giáo lý Hồi giáo mà thôi.
Cũng thế quý vị tìm thấy
được một ý niệm về quốc gia, về tinh thần tâm linh, nơi người Ấn giáo. Quý vị
cũng sẽ không thấy được trên thế giới ở bất kỳ tôn giáo khác, ở bất kỳ quyển
kinh nào khác, mà dành nhiều sức lực để định nghĩa khái niệm về Thượng Đế như vậy.
Những người Ấn giáo đã tìm kiếm cho linh hồn một định nghĩa mà không có chi ở
cõi trần này có thể làm hoen ố. Người tu phải thánh thiện, chơn linh mà được xem là chơn linh thì không phải được làm bằng
con người. Trong Ấn Độ giáo, cùng với khái niệm Nhất thể, thì sự sáng tạo
của đức Thượng Đế, tính hiện hữu mọi nơi được truyền giảng khắp chốn. Tín hữu Ấn
giáo thấy phi lý mà kể rằng Ngài ngự trên trời, v.v… Đó chỉ là một khái niệm
mang tính cách và bóng dáng của nhân loại. Thiên đường nếu đã từng hiện hữu thì
là nơi đây, và trong giây phút hiện tại. (p.141 TNHT)Trong
thời gian vô tận thì mỗi giây phút đều quý báu như nhau. Nếu quý vị tin tưởng
vào đức Thượng Đế, quý vị có thể thấy Ngài ngay bây giờ. Chúng tôi cho là tôn
giáo khởi đầu khi mà điều gì đó thực sự trở nên hiện thực đối với chúng ta, nó
không phải là sự đặt niềm tin vào những chủ thuyết hay là sự tán thành của trí
tuệ cũng như là đưa ra vài điều tuyên bố. Nếu một đấng Thượng Đế hiện hữu thì
quý vị đã thấy chưa ? Nếu quý vị trả lời chưa thì lấy quyền gì mà quý vị tin tưởng
vào Ngài ? Nếu quý vị giả thuyết rằng đã có một đức Thượng Đế thì tại sao lại
không miệt mài say mê thử nhìn thấy Ngài ? Tại sao quý vị không phủi hết muôn sự
ở cõi trần này và không trọn hiến đời mình cho công cuộc tìm kiếm duy nhất đó?
Buông xả thế sự và sống Đạo là hai tư tưởng lớn của Ấn Độ và cũng bởi vì nước Ấn
còn bám chặt vào hai tư tưởng này mà tất cả những lỗi lầm phạm phải trở nên vô
cùng nhỏ bé.
Với người Ki-Tô, tư tưởng
căn bản được rao giảng cũng y như thế: “ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, bởi nước Trời
gần đây” (2), có nghĩa là: hãy tinh lọc tinh
thần và hãy sẳn sàng! Và tinh thần này không bao giờ chết. Quý vị biết rằng, những
người Ki-Tô, dù trong những ngày đen tối nhứt, dù trong những nước Cơ Đốc mê
tín nhất, luôn cố gắng chuẩn bị cho ngày Chúa đến, bằng cách cứu giúp đồng bào
họ, xây dựng bệnh viện v.v… Khi nào mà tín hữu Ki-Tô còn tha thiết với lý tưởng
này thì tôn giáo của họ sẽ còn tồn tại.
Bây giờ, có một lý tưởng
vừa đến trong tâm trí tôi. Có thể đây chỉ là một giấc mơ; tôi không biết có bao
giờ nó sẽ được thực hiện trong thế giới này hay không, nhưng đôi khi thà có một
giấc mơ hơn là chết trong sự thật phủ phàng. Những sự thật vĩ đại, thì cho dù
là ở trong giấc mơ, vẫn tốt hơn là một thực tế xấu xa. Vậy ta hãy cùng nhau mơ.
Quý vị biết rằng có nhiều
xu hướng tinh thần khác nhau. Có thể là một người duy vật chỉ tin vào lý trí và
những thực tế phàm gian; có thể là một người không hứng thú với âm thinh, sắc
tướng; có người thì đòi hỏi những sự việc nghiêm túc, hợp lý, có tiếng vang, đạo
đàm với bậc thiện trí thức và không hài lòng với việc khác. Cũng có những người
Thanh giáo và Hồi giáo không chấp nhận thần tượng và hình ảnh nơi thờ phượng.
Thật tốt thay, nhưng người khác có thể
nghệ sĩ hơn và cần một sự phô trương mỹ thuật, với những đường nét đẹp, những
đường cong duyên dáng, muôn sắc màu, hoa lá, thiên hình vạn trạng; Người thì lại
cần đèn cầy, ngọn đèn, với bao chi tiết và tất cả những lễ nghi linh tinh để họ
thấy được Thượng-Đế; tinh thần họ tạo nên Thượng-Đế bằng những hình dáng bên
ngoài giống như tinh thần quý vị sáng tạo ra Ngài bằng sự thông minh. Cũng có
người sùng đạo, hồn họ cầu khẩn Thượng-Đế một cách điên cuồng; Ý tưởng duy nhất
của họ là thờ cúng Thượng-Đế và ca ngợi Ngài. Lại còn có các triết gia xa lánh
và chế giểu tất cả người khác: “ thật là
đần độn, những người này sao mà lại nghĩ ra phương cách quan niệm Thượng-Đế ngớ
ngẩn như thế chớ!”
Họ chê cười lẫn nhau,
nhưng mỗi người trong số họ đều có vị trí của mình trong thế giới này. Mọi tư
tưởng khác nhau này, tất cả những loại người khác biệt này điều cần thiết. Nếu
có một ngày phải có một tôn giáo đại đồng thì
tôn giáo ấy phải đủ rộng lớn hầu cung ứng cho mỗi loại người kể trên thứ mà họ
cần. Nó phải cho các triết gia sức mạnh của triết học, cho người sùng bái lòng
mộ đạo, cho người chuộng lễ nghi tất cả những gì có thể cung cấp các biểu tượng
huy hoàng nhất, cho thi sĩ trọn đủ cảm xúc mà họ có thể
cảm nhận được, và còn thứ khác nữa. Để xây dựng một tôn giáo đủ rộng lớn,
chúng ta phải trở về thời kỳ mà các tôn giáo bắt đầu xuất hiện và chấp nhận lẫn
nhau. Vậy phương châm của chúng ta sẽ là chấp nhận chớ không loại trừ. Không phải
chỉ là có khoan dung, bởi cái gọi là khoan dung thường là một sự xúc phạm và
tôi không tin vào điều ấy. Tôi tin là phải chấp nhận quan điểm của người khác.
Tại sao tôi lại là người khoan dung ? Khoan dung nghĩa là tôi tin quý vị sai lầm
và tôi muốn để quý vị sống. Có phải chăng là lăng mạ khi nghĩ rằng tôi và quý vị
cho huynh đệ mình quyền được sống ? Tôi chấp nhận tất cả các tôn giáo đã hiện hữu
trong quá khứ và tôi kính yêu Thượng-Đế cùng với mỗi một tôn giáo dù cho họ thờ
phượng Ngài dưới bất cứ hình thức nào. Tôi sẽ tới đền thờ Hồi giáo; tôi sẽ vào
thánh đường ki-tô và quì trước thập tự giá; tôi sẽ vào chùa, nương trú vào đức
Thế-Tôn và giới luật của Người. Tôi sẽ vào rừng, tọa thiền bên cạnh người Ấn
giáo, khi mà họ đang tìm cách thấy được Ánh sáng soi sáng mọi con tim.
Không những chỉ làm tất cả
những việc đó mà tôi sẽ còn giữ cho con tim mình rộng mở với tất cả những tôn
giáo có thể đến sau này. Quyển kinh của cha Trời kết thúc rồi sao ? Hay đúng
hơn là một sự mặc khải liên tục, luôn luôn nối tiếp phải không ? Đây là một quyển
kinh báo được hình thành từ tất cả sự minh truyền chơn lý. Thánh Kinh, Kinh Vệ
Đà (Védas), Kinh “Coran” và mọi kinh
khác đều là những trang sách của quyển kinh ấy và còn hằng hà sa số trang phải
lật. Tôi muốn quyển kinh này dành cho mọi tôn giáo. Chúng ta đang sống trong hiện
tại, nhưng cần rộng mở với tương lai vô hạn. Chúng ta kết hợp những gì mãi mãi
tồn tại trong quá khứ, vui mừng với ánh sáng của hiện tại và mở tất cả các cửa
sổ của tim mình với những gì sẽ đến trong tương lai. Xin kính chào tất cả nhà
tiên tri của quá khứ, tất cả những tâm hồn của hiện tại và tất cả những tâm hồn
sẽ xuất hiện trong tương lai !
(1)
Bản dịch bài nói chuyện của Swâmi Vivekânanda với tựa đề là Comment réaliser une religion universelle, Conférence faite en l’église universaliste de Pasadena, Californie,
le 28 janvier 1900.
Bài này được in trong quyển
Jânna-Yoga, trang 359-376, dịch từ tiếng Anh sang Pháp văn bởi Jean Herbert,
1936.
Nhà xuất bản Albin
Michel, 1972.
22, rue Huyghens,
Paris (XIV e)
No comments:
Post a Comment