HỌC KỆ “TÍN TÂM MINH”
Thiện Chí
sưu tầm
Bài kệ TÍN TÂM MINH do Tam Tổ Tăng
Xán (viên tịch năm 606 đời nhà Tùy, Trung Quốc) truyền lại. Kệ được xem là cốt
tủy thiền đạo của Tổ nên nhiều thiền sư và cao tăng sau này đã dịch thuật hoặc
bình giảng để truyền bá thiền tông.
Tại nước ta, có thiền sư Thích Thanh
Từ từng thuyết giảng và dịch ra Việt ngữ, phổ biến khá rộng rãi. Đặc biệt, ngài
Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) sinh tiền là Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội đã dịch một
số đoạn của bài kệ Tín Tâm Minh rất dễ hiểu, dễ nhớ. Bài dịch chỉ gồm 20 câu, mỗi
câu 7 chữ, văn vẻ bình dị mà vẫn toát lên thiền lý chân truyền tuyệt diệu.
Do tâm đắc, người viết
chép lại, đọc nhiều lần, bèn khởi tâm phóng tác thành 5 vé thơ song thất lục
bát để tự răn mình, cũng có khi chia sẻ với bạn đạo. Ngoài ra, còn sưu tầm các
bài Thánh ngôn minh họa song song. Rất mong được chư hiền hữu đồng cảm.
Sau đây là bản chữ Hán và phiên âm 10 câu mà Ngài
Minh Thiện đã rút gọn từ nguyên bản của Tổ Tăng Xán (*). Bản chữ Hán này căn
cứ theo văn bản kinh điển nhà Phật được phát hiện tại Đôn Hoàng (**).
|
|
1. 至 道 無 難 ,唯 嫌 揀 擇.
2. 但 莫 憎 愛 ,洞 然 明 白.
3. 毫 釐 有 差 ,天 地 懸 隔.
4. 欲 得 現 前 ,莫 存 順 逆.
5. 違 順 相 爭 ,是 為 心 病.
6. 不 識 玄 旨 ,徒 勞 念 靜.
34. 放 之 自 然 ,體 無 去 住.
35. 任 性 合 道 ,逍 遙 絶 惱.
57. 一 切 不 留 ,無 可 記 憶.
40. 智 者 無 為 ,愚 人 自 縛.
|
1. Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch.
2. Đản mạc tắng ái, đỗng nhiên minh bạch.
3. Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách.
4. Dục đắc hiện tiền, mạc tồn thuận nghịch.
5. Vi thuận tương tranh, thị vi tâm bệnh.
6. Bất thức huyền chỉ, đồ lao niệm tịnh.
34. Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ.
35. Nhiệm tánh hiệp Đạo, tiêu diêu tuyệt não.
57. Nhứt thiết bất lưu, vô khả ký ức.
40. Trí giả vô vi, ngu nhân tự phược.
|
(*) Nguồn: sách NGÀI MINH THIỆN- Cuộc Đời & Đạo
Nghiệp.
Nhà xuất bản TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN San Martin, CA,
USA • 2010.
Minh Lý Thánh Hội Ấn phẩm kỷ niệm lần thứ 39 ngày
quy tiên của Ngài Minh Thiện (1897-1972).
http://tamgiaodongnguyen.com/Books/NgaiMinhThien.pdf.
|
(**) Đôn Hoàng thị 敦煌市, là một thị xã (31.200km2) nằm trong một ốc đảo sa mạc
thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Năm 1900 một đạo sĩ họ Vương quản lý hang động
tại Đôn Hoàng tình cờ phát hiện một hang nhỏ 3x3 mét, chứa hơn 50.000 cổ vật
cực kỳ quý hiếm có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 11, trong đó kinh điển nhà
Phật là một tài sản rất phong phú và vô giá. Bản chữ Hán Tín Tâm Minh trích dẫn
trên đây mượn từ địa chỉ:
http://www.mahabodhisunyata.com/home/.../3-sengcan/faith-mind-inscription.
|
TÍN TÂM MINH
(Nguyễn Minh Thiện dịch)
|
TÍN TÂM MINH
(Phóng tác bản Việt dịch)
|
THÁNH GIÁO MINH HỌA
|
Chí Đạo chẳng
có chi rằng khó,
Hiềm vì người cau có, so đo,
Chỉ không nên thương ghét rị mò,
Lòng thiệt trống, xét dò tỏ sáng.
Vương một mảy
lầm sai chẳng hạn,
Chia đất trời cách hẳn đôi bên,
Muốn đạo cao trác lập hiện tiền,
Chớ thuận nghịch mà thiên đây đó.
Bằng trái
phải đua tranh chẳng bỏ,
Ấy bịnh tâm nê cố hãy còn,
Nếu chẳng rành huyền chỉ chí ngôn,
Dầu niệm tịnh cũng khôn mấy ích.
Buông thong
thả, xả đừng ràng rịch,
Thể vốn không xê dịch lại qua,
Noi tánh thường, hiệp Đạo mới là,
Hết phiền não, vào ra tự tại.
Chớ cầm giữ
cái chi ở lại,
Cho Tâm còn một mảy nhớ nhung,
Người khôn ngoan vô tác thi công,
Kẻ ngu dốt đành lòng tự trói.
|
Đã quyết tu
chớ rằng dễ khó,
Chỉ tại ta to nhỏ thiệt hơn,
Nào thương, nào ghét, giận hờn,
Lòng không trống trải nguồn cơn sao tường?
Còn một niệm
vấn vương biện biệt,
Thì sai lầm chia cách xa vời,
Muốn đem đạo cả giúp đời,
Chớ vì thuận nghịch hôm mơi thân thù.
Nếu cứ mãi
hơn thua thắng bại,
Chấp khư khư khó giải bệnh tâm,
Huyền vi lý một chưa thông,
Dẫu làm mọt sách cũng không ích gì!
Buông bỏ rồi,
đứng đi thong thả,
Bản thể tâm chẳng khá đổi dời,
Ở sao hiệp đạo thì thôi,
Còn đâu phiền não, ta thời tự do.
Gương tâm
xóa bóng mờ qua lại,
Hình không lưu, nào phải nhớ nhung,
Người khôn vô kỷ, vô công,
Kẻ dại thì vẫn ôm chầm cái ta!
|
Công khó há nài chỗ đắn đo,
Làm
sao mai hậu được nên trò,
Thuyền
từ tay lái, tay chèo chống,
Để
vượt muôn trùng lượn sóng to.[1]
Chủ tình thức tâm linh chiếu diệu,
Thấu
suốt điều thọ yểu cùng thông,
Tự
do tự tại thong dong,
Vào
ra thấy tánh chơn không hiện bày.[2]
Vui sướng chi cuộc cờ thắng bại,
Lợi
bên này mà hại bên kia,
Khổ
vì mâu thuẫn rẽ chia,
Ghét
ganh ích kỷ, đoạn lìa tình thương.[3]
Hòa mình vạn vật cảnh thiên nhiên,
Cho
hết ưu tư mọi não phiền,
Tâm
được thênh thang lòng thoải mái,
Một
giờ một phút cũng thần tiên.[4]
Khuyên chư đệ có thân âu phải,
Phải
lo lường thân dại hay khôn,
Đừng
cho mờ tối linh hồn,
Xem trò thế sự bảo tồn tương
lai.[5]
|
CHÚ GIẢI KỆ TÍN TÂM MINH CỦA THIỀN SƯ
THÍCH THANH TỪ (Tóm lược)
Chí đạo là chỗ tột cùng, vô nan là
không khó, duy là chỉ, hiềm là không bằng lòng, giản trạch là lựa
chọn. Chí đạo tột cùng không khó, mà khó ở chỗ còn lựa chọn.
Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách: nếu sai chừng một hào, một ly thì
cách xa bằng trời với đất.
Vi thuận tương tranh, thị vi tâm bệnh: Người tu vừa thấy đây là thuận, kia
là nghịch chống đối nhau, đó là tâm bịnh chớ không phải đạo, không phải thiền.
Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ: Nếu buông tất cả thì thể chân thật
không đi, không trụ tự nhiên hiện tiền.
Nhậm tánh hiệp đạo, tiêu dao tuyệt
não: Xứng với tánh
thì hợp với đạo, tức là thể tánh trùm khắp, nếu sống với thể trùm khắp đó thì hợp
với đạo. Khi hợp với đạo thì rong chơi thảnh thơi không rối loạn buồn rầu, hết
phiền não.
Lục trần bất ố, hoàn đồng chánh giác: Sáu trần không ghét, xoay lại thì đồng
với chánh giác. Niệm ưa ghét là loạn động không hợp với đạo.
Trí giả vô vi, ngu nhơn tự phược: Người trí đối với sáu trần thì tâm
thảnh thơi, không ưa ghét nên gọi là vô vi.
Nguồn:
https://hoavouu.com/images/file/5-K_hmAx0QgQAP5s/tin-tam-minh-giang-giai-ht-thich-thanh-tu.pdf.
[1] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 23-12 Kỷ
Dậu (30-01-1970).
[2]
Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 13-8 Kỷ Mùi
(03-10-1979).
[4]
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 23-12 Kỷ Dậu (30-01-1970).
[5]
Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 15-7 Mậu Thân (08-8-1968).