Tuesday, December 29, 2015

Bản hợp xướng Xuân tâm và Xuân cảnh

Bản hợp xướng Xuân tâm và Xuân cảnh

Đối với đạo Cao Đài – một nền đạo được khai sinh ngay trên đất nước Việt nam và được xây dựng từ quốc hồn, quốc túy Việt nam – mùa xuân là một chủ đề giáo lý hấp dẫn và gần gũi dành cho đại chúng. Bất kỳ một người Việt nam nào cũng có thể tìm thấy nơi đạo Cao Đài một sự đồng cảm qua những trang giáo lý đầy ắp văn chương thi phú về mùa xuân. Không phải là những vần điệu tả cảnh tả tình để thư giãn đầu năm, giáo lý về mùa xuân đóng một vai trò đặc biệt trong việc minh họa sống động cho sự hiện diện của Thiên Đạo trong nhân thế. Và hơn nữa, Đức Thượng Đế – Đấng khai minh Đại Đạo Cao Đài – còn dạy chúng ta rằng:

"Phương pháp làm cho các con đủ năng lực và tính chất [để] bảo vệ quyền hạn của địa vị con người đều đặt trọn vào ý nghĩa mùa Xuân, vì nó là biểu tượng cho sự ấm áp, cho tình thương nơi Thầy, và cho sự sống vĩnh cửu hằng hữu với vũ trụ không gian. Vậy thì các con nên căn cứ vào nghĩa lý ấy mà gìn giữ tâm linh được điều hòa, thanh tịnh luôn, hầu nuôi nấng chơn tánh toàn thiện toàn giác của Thầy đã ban cho mỗi con ngày nào."[1]

Hòa điệu giữa Xuân cảnh và Xuân tâm

Trong giáo lý về mùa xuân của đạo Cao Đài, mới nhìn, chúng ta sẽ thấy có đến hai mùa xuân: một mùa xuân thông thường của ngoại cảnh, được gọi tắt là xuân cảnh; và một mùa xuân huyền diệu của nội tâm, được gọi tắt là xuân tâm. Tuy nhiên, xuân cảnh mà thiếu xuân tâm thì chỉ là một quang cảnh vô thường giả tạm, còn xuân tâm mà thiếu xuân cảnh lại chỉ là những ý thức cao siêu của bậc tu hành. Muốn thưởng thức được một mùa xuân đúng nghĩa, phải có sự hòa hợp giữa xuân tâm của hồn người và xuân cảnh của thiên nhiên:

"Xuân là cảnh thiên thời địa lợi,

Có nhân hòa, xuân mới thành xuân,

Năm qua tháng lại vô ngần,

Biết xuân, thưởng được ngày xuân huy hoàng."[2]

Xuân chỉ thật sự là xuân nếu có sự phối kết giữa xuân cảnh với xuân tâm. Khi Trời Đất khởi xướng mùa xuân trong cảnh vật, thì con người phụ họa lại bằng mùa xuân trong lòng mình. Rồi khi xuân tâm nơi con người phát khởi, thì cảnh vật trong Trời Đất cũng phụ họa theo và trở nên đẹp đẽ hơn, vui tươi hơn đối với con người. Đây là một chuỗi xướng-họa liên tiếp nhau giữa xuân tâm và xuân cảnh: khi xuân tâm khởi xướng thì xuân cảnh phụ họa, và rồi ngược lại, cứ như vậy mà diễn tiến một cách nhịp nhàng khoan nhặt qua những cung bậc trầm bỗng khác nhau giữa tâm hồn con người và cảnh sắc vạn vật. Những khúc xướng-họa giữa xuân tâm và xuân cảnh như vậy sẽ tạo nên những hòa điệu hoành tráng giữa Trời Đất và con người. Những hòa điệu này làm nên bản hợp xướng mà ta gọi là mùa xuân.

Trong một bản hợp xướng, thường có nhiều bè được phân chia theo âm vực của chất giọng: nữ cao (soprano), nữ trung (alto), nam cao (tenor), nam trầm (basso),… Đây là một loại âm nhạc có nguồn gốc từ Pythagore giáo ở Hy lạp cổ đại và được phát triển trong lòng văn hóa châu Âu, nên người Việt nam mình khi nghe từng bè (của một ca đoàn hợp xướng) hát riêng rẽ, thường có một cảm giác rất khó chịu: sao mà mỗi bè đều hát dở theo một kiểu! Bè này thì eo éo, bè kia cứ ồm ồm, bè nọ lại ngang phè; đó là chưa kể đến việc các bè phụ cứ hát như thể đổi ngược dấu tiếng Việt – ví dụ thay vì "văn hiến Tiên Rồng" lại hát thành "văn hiền tiền rống" – nghe thật quá sức mâu thuẫn với bè chính! Tuy nhiên, khi tất cả các bè này hợp xướng, tức là đồng loạt hát lên theo một sự điều khiển có kế hoạch, thì một phép lạ lập tức xuất hiện: mọi mâu thuẫn ngổn ngang trước đây bổng nhiên biến thành một sự bổ túc đồng điệu cho nhau, bè chính thổi linh hồn vào bè phụ, bè phụ tạo ra sức sống của bè chính, và tất cả những cái dở khác nhau trước đây cũng đồng loạt trở thành những cái hay trong việc tạo ra sức truyền cảm của bài hát vào tâm hồn thính giả.

Phép lạ mà một bản hợp xướng có được – đơn giản thay! – chỉ nằm trong một chữ "Hòa". Những điều mầu nhiệm của mùa xuân chỉ xuất hiện trong sự hòa hợp giữa xuân tâm và xuân cảnh. Sống được với sự hòa hợp ấy thì cuộc đời mỗi người chúng ta sẽ luôn luôn:

"Có xuân, có cảnh có tình,

Có tâm có đạo, trường sinh bảo tồn."[3]

Xuân cảnh

Ngàn hoa đua nở, muôn lộc đâm chồi, cảnh vật trở nên xinh tươi, cuộc đời bừng lên bao sức sống; dưới những nét vẽ vô hình của tình tạo hóa, xuân cảnh nơi thế gian này quả là những bức tranh tuyệt tác để con người thưởng ngoạn. Tuy vậy, Đức Chí Tôn đang cách tân những tập quán thưởng ngoạn cảnh xuân mà nhân loại đã có từ bao đời, để nhân loại biết đi tìm dáng vẻ tương lai của mùa xuân thánh đức:

"Xuân đời, cảnh vật có chi các con! Cành hoa chớm nở tươi xinh, các con nâng niu cành lá, vun tưới gốc cây, ngửi mùi thơm trong nhụy. Sao các con không vun tưới cội lành đạo cả, nâng niu sang sửa chơn tâm cho thật tươi nhuận, sáng suốt, để rồi ngửi lấy đạo vị nhiệm mầu tự lòng con khai phát?"[4]

Có phải chăng đạo Cao Đài muốn "tôn giáo hóa" mùa xuân, muốn "tuyên truyền" một bầu không khí tu hành vào trong mọi sự việc bình thường của nhân thế? Không phải đâu. Đạo Cao Đài đang dốc sức giải quyết một thảm kịch có thật của hành tinh này: Cả nhân loại chúng ta đang phải sống trong một mùa đông hạ nguơn lồng lộng gió sương – những động đất, sóng thần, bão lụt, hạn hán, bệnh dịch, chiến tranh, khủng bố,… ngày càng tràn ngập trên khắp năm châu – và đạo Cao Đài đang đem đến cho nhân loại nói chung và dân tộc Việt nam nói riêng những nhận thức mới về đạo lý trường tồn của mùa xuân thánh đức. Cuộc đời sẽ không bao giờ có hạnh phúc nếu nhân loại chỉ hài lòng với những niềm vui ngắn hạn, phát xuất từ những sự kiện bên ngoài; mọi cảnh xuân huy hoàng rồi cũng phải nhường chỗ cho những nắng hạ mưa thu giữa cuộc đời dâu bể. Bởi vậy, ta chẳng trách được những vần thơ xuân buồn bã của nhiều thi sĩ ngoài đời:

"Mùa xuân hiện giữa ngàn mai,

Nguyên hình Nữ Chúa trên ngày phù du."[5]

Trong nỗi buồn của hai câu lục bát này, dù Chúa Xuân có đến cùng với những cảnh vật xinh tươi, thì đó cũng chỉ là những nét đẹp vô thường. Thế nên Đức Liễu Tâm Chơn Nhơn đã để lời cảnh tỉnh:

"Xuân cảnh là một thời tiết đổi thay trong máy tuần hoàn của tạo vật. Xuân cảnh là tạm ngừng nghỉ một mùa đông gió rét, để làm lại, sắp xếp lại cho tiết đầu năm. Rồi cũng hết xuân, chuyển lần qua hạ, thu, đông, luân chuyển xây vần trong cái thiên luân, trong vòng lẩn quẩn, hết nhân rồi quả, hết quả rồi lại nhân, hỏi người đời mấy ai hưởng được một mùa xuân bất tận, mà tránh khỏi hạ về thiêu đốt, đông đến cắt thịt se da?"[6]

Cũng may mắn làm sao, từ rất lâu đời, tổ tiên chúng ta đã biến mùa xuân ngoại cảnh của thiên nhiên thành mùa xuân văn hóa trong quốc hồn quốc túy của dân tộc. Người Việt ngày xưa rất chú trọng đến bầu không khí thiêng liêng của những thời khắc đầu năm, vì bầu không khí đậm đà màu sắc tâm linh này có thể đánh thức trong lòng con người những giá trị nhân bản tính. Nhờ vậy, phong vị Tết cổ truyền nằm ở bầu không khí đầm ấm, thân thuộc trong gia đình, giòng tộc, thôn làng, chứ không đơn thuần là những vui chơi hời hợt bên ngoài.

Tuy nhiên, phải chi chúng ta có dịp ăn một cái Tết ở những thời Lý Trần hay ở một thời đại mà Tam giáo còn hưng thịnh trong xã hội Việt nam để cảm nhận cái-xuân-cảnh-mang-thực-chất-của-xuân-tâm đậm đà hồn Việt, chứ trong gần một trăm năm trở lại đây, phong vị Tết truyền thống của dân tộc cũng đã dần dần bị phôi phai theo sự lãng quên những giá trị đạo lý cổ truyền. Văn học sử Việt nam còn ghi lại hình ảnh cụ đồ nho bị mờ nhạt dần qua những cái Tết miền Bắc từ thời tiền chiến, với bài thơ "Ông Đồ" của thi sĩ Vũ Đình Liên:

"Mỗi năm hoa đào nở

Lại thấy ông đồ già

Bày mực tàu, giấy đỏ

Bên phố đông người qua

(…)

Ông đồ vẫn ngồi đấy

Qua đường không ai hay

Lá vàng rơi trên giấy

Ngoài trời mưa bụi bay…" [7]

Sự quên lãng mà người miền Bắc dành cho ông đồ già ngồi bên hè phố trong những phiên chợ Tết ở đầu thế kỷ 20 cũng là một sự báo động xót xa về sự quên lãng mà xã hội Việt nam hiện đại không chỉ dành cho Nho giáo mà còn cho cả những giá trị văn hóa tinh thần và những phẩm chất đạo đức cổ truyền trong đời sống của mình. Hậu quả là, người Việt nam mình dần dần có khuynh hướng vật chất hóa mùa xuân, phàm tục hóa ngày Tết. Người ta chi tiêu nhiều tiền bạc cho việc ăn uống và hưởng thụ trong mấy ngày Tết, tạo ra những dư thừa về ẩm thực quá mức cần thiết trong những ngày đầu năm để… lấy hên; trong khi đó, những giá trị đạo lý và văn hóa căn bản của ngày Tết lại bị xao lãng. Việc thưởng xuân và ăn Tết rõ ràng đã bị… "thất chơn truyền", vì sa đà vào xuân cảnh, không phải thứ xuân cảnh thanh tú của thiên nhiên mà là một thứ xuân cảnh trần tục nặng nề do con người tạo nên trong sự hám vọng tiêu thụ vật chất của chính mình. Mùa xuân cũng không còn vẹn toàn những dáng vẻ thiêng liêng, mà bị chìm vào những tuồng đời ấm lạnh, vui buồn trong cõi vô thường giả tạm này.

Xuân tâm

Đằng sau những nét tưng bừng rực rỡ của xuân cảnh, chúng ta luôn luôn có thể nhìn thấy xuân tâm của vạn vật và nhân loại, tuy mang những đường nét khác biệt với xuân cảnh, nhưng cũng huy hoàng không kém gì – nếu không nói là còn hơn cả – xuân cảnh, bởi vì chính xuân tâm là sức sống thật sự của xuân cảnh. Đức Trần Hưng Đạo chỉ cho chúng ta thấy điều này:

"Cứ mỗi độ xuân về, cỏ cây đã cởi bỏ lớp lá vàng rơi rụng, mang lên một màu tươi nhuận thắm xanh. Cỏ cây hoa lá tuy rằng là vật vô tri vô giác, nhưng [với] tiềm năng linh ứng Tạo Hóa đã ban, cũng chuyển mình trong tiềm thức đón lấy tiết xuân sang để hòa đồng cùng vạn vật.

(…) Mỗi độ đông tàn xuân đến, là con người – đã mang một thể xác vi nhơn, chứa đựng những tâm tư thầm kín, một khối óc tinh khôn, sự hiểu biết phải trái, dở hay, chánh tà cùng khôn dại – dầu cho từ hạng cùng đinh dân thứ đến hàng chí sĩ đạo đức uyên thâm, dầu muốn dầu không, tâm sự cũng dao động với tiết xuân về. Người vinh hoa phú túc vật chất thải thừa đua đòi thụ hưởng đành rồi, nhưng đối với hạng cơ bần thiếu thốn, sớm có chiều không, dầu lòng có muốn quên đi hoặc phôi pha cho mau qua những ngày Xuân đến, cũng cảm thấy nơi tâm tư có những gì rộn rực."[8]

Sự nẩy lộc đâm chồi ở cỏ cây là một biểu hiện của xuân tâm trong tiềm thức của thực vật. Sự rộn rực khi xuân đến ở mỗi người là một biểu hiện của xuân tâm nơi con người. Nhưng, xuân đâu chỉ có thế – Đức Thánh Trần bảo:

"Xuân đến lồng trong khắp mọi người,

Sang hèn thanh trược cũng vui tươi,

Lẽ đâu xuân chỉ xuân chừng ấy,

Mà nợ tang bồng quên đấy thôi."[9]

Con người, cùng với Trời và Đất, là ba ngôi của vũ trụ mà đạo học Đông phương gọi là Tam Tài. Trong Trời Đất thì có Đạo, trong con người thì có Tâm. Cái Tâm này vốn là mùa xuân bất diệt, trường tồn trong con người, và sứ mạng của mỗi chúng ta là gieo rải những hạt giống bất diệt trường tồn ấy vào thế hạ. Đức Chí Tôn dạy:

"Là một trong tam tài định vị,

Là muôn trong một lý nhất nguyên;

Con ơi phú bẩm do Thiên,

Máy linh Tạo Hóa ban truyền cho con.

Có vũ trụ sông non gồm đủ,

Có hình hài riêng thú kiền khôn;

Có xuân bất diệt trường tồn,

Cho vào thế hạ chiêu hồn vạn sanh.

Một sứ mạng Thầy dành hai ngỏ,

Một ra đi một trở lại Thầy;

Dù cho nam bắc đông tây,

Cổ kim nhơn vật do Thầy định phân."[10]

Vì con người đã bị lục dục thất tình bao phủ từ lâu đời nhiều kiếp – bởi luân chuyển qua nhiều vòng luân hồi – nên mùa xuân tâm này tự nó không hiển lộ, mà con người phải tìm lại, phải khôi phục, phải đánh thức nó trong lòng mình.

"Không cứ phải một mùa xuân – cách hạ, thu, đông – hai mùa xuân hoặc trăm vạn mùa xuân phát sinh vào thời gian ngắn ngủi, mà mùa nào chí những mùa nào, [nếu] các con vẫn trau luyện tâm mình được tươi nhuận, ấm áp, dịu hiền, không sân hận, không si mê, không tham vọng, thì các con tự khắc đã gần gũi với Thầy rồi đó. (…) Như vậy, các con được sống trong mùa xuân miên viễn, không hạn định, không hủy bỏ theo thời gian. Ấy là xuân đạo đức. Ngày xuân năm nay, Thầy chỉ mong các con dọn sạch lòng mình để chào đón mùa xuân và phải nhớ là mùa xuân đạo đức vĩnh cửu nghe các con."[11]

Như vậy, xuân tâm là trạng thái tâm hồn tươi nhuận, ấm áp, dịu hiền, không sân hận, không si mê, không tham vọng,… của chính bản thân mỗi người chúng ta. Mùa xuân tâm sẽ đến trong lòng ta, nếu chúng ta thay thế những trạng thái nội tâm thường tình của lục dục thất tình bằng những trạng thái xuân tâm đẹp đẽ này.

"Xuân là Đạo, Đạo Trời ban phát,

Đạo là xuân, xuân lạc thiên nhiên,

Vui xuân vui với tâm điền,

Tiết thời hòa dịu người yên vật lành."[12]

Xuân thời thơ ấu

Chúng ta đã nhiều lần thấy được xuân cảnh trong những bức tranh xuân vạn sắc của thiên nhiên. Chúng ta cũng không ít lần thấy được xuân tâm trong trạng thái tâm hồn tươi nhuận, ấm áp, dịu hiền, không tham, sân, si của chính bản thân mình. Bây giờ, bản hợp xướng giữa hai mùa xuân này, chúng ta có thể chứng minh được sự hiện diện của nó ở đâu?

"Trời đất minh minh,

Hoa cỏ xinh xinh,

Non nước hữu tình,

Tìm đâu khúc nhạc thanh bình,

Cho nguyên nhân khỏi lộ trình phong ba?"[13]

Trong cuộc đời không lấy gì làm dài của mỗi con người, vào những ngày còn bé thơ, chúng ta đã từng sống trong khúc nhạc thanh bình tưởng chừng như bất tận đó. Và Đức Chí Tôn khơi lại  khúc nhạc đó trong ký ức của chúng ta:

"Con nhớ chăng thời xuân thơ ấu,

Một trời xuân hòa tấu thiên nhiên"[14]

Khi mới chào đời, tâm tánh con người hãy còn thánh thiện hồn nhiên. Đạo học gọi trạng thái đó của tâm tánh là "Xích tử chi tâm" (tâm của đứa bé màu đỏ, tức là của trẻ sơ sinh). Cái tâm Xích tử này còn trong sáng, chưa bị nhuốm bụi trần, và cũng là cái tâm xuân được Trời phú bẩm, tạo nên mùa xuân tự nhiên trong cơ thể con người. Suốt những năm tháng ấu thời, khi mà con người chưa bị lục dục thất tình của chính mình chi phối, chưa biết đến những âu lo, tạp niệm, chấp nhứt, cũng chưa biết tham, sân, si, thì con người cũng chưa bị bất kỳ một thứ khổ đau, phiền não hay oan trái nào ràng buộc, mà cứ vui sống thung dung tự tại trong thế giới hồn nhiên của trẻ thơ. Đó là xuân tâm ở thời thơ ấu mà mỗi người trong chúng ta đều đã từng có. Xuân tâm ấy không bao giờ phản kháng lại ngoại cảnh mà luôn biết hòa hợp với ngoại cảnh (nghĩa là biết tuân theo quy luật "Thuận Thiên giả tồn, nghịch Thiên giả vong"). Nhờ sự hòa hợp này giữa tâm và cảnh, nên đối với trẻ con, mùa nào cũng đẹp như mùa xuân, ngày nào cũng vui như ngày tết. Đó là một trạng thái kỳ diệu của đời sống, y hệt như điều mà Đức Chí Tôn mô tả:

"Riêng nhân loại năng tri vốn sẵn,

Một mùa xuân tất thắng huy hoàng;

Sá chi hạ trưởng, đông tàng,

Cung Trời ba sáu, thanh nhàn hưởng xuân."[15]

[Đọc tiếp: http://nhipcaugiaoly.googlepages.com/banhopxuong ]

Thiện Quang

NGHĨ VỀ ĐẤNG CỨU CHUỘC



NGHĨ VỀ ĐẤNG CỨU CHUỘC

Vào mùa Giáng sinh năm nay (2013), trong khi khắp nơi đang hướng về kỷ niệm ngày xuống thế của Đức Giê-Xu-Ki-Tô  thì được tin Cựu Tổng thống Nelson Mandela của Nam Phi qua đời. Hai sự kiện trùng  hợp khiến chúng ta không khỏi suy ngẫm về ảnh hưởng của những nhân vật lịch sử.
Ngay tức thì sau khi Ông Nelson Mandela vĩnh biệt dân tộc Ông, nhiều nguyên thủ quốc gia trên thế giới đã tỏ bày niềm mến tiếc và tôn vinh Ông, “một người dũng cảm trọn đời kiên trì đấu tranh cho Công bình, Tự do và lòng Bác ái”. Cả thế giới không phân biệt sắc tộc, quốc gia  hay tôn giáo, đều đồng cảm, chia sẻ tình cảm và sự mến phục Ông như một “vĩ nhân”.
Nói như thế không phải quá lời vì Ông đã lãnh đạo thắng lợi cuộc đấu tranh lâu dài chống lại chủ nghĩa “apathai” vô nhân đạo. Và trước Ông cũng có những “vĩ nhân” chống lại tội ác đối với loài người trong lịch sử. Các dân tộc vẫn còn tri ân những vật đó như những cứu tinh .  Tuy nhiên, có một “cứu tinh” các đây hơn 2.000 năm, thế giới không gọi là vĩ nhân, mà trân trọng tôn xưng là “Đấng Cứu Chuộc”.
Với Kitô Giáo: “Cứu độ là mầu nhiệm về cuộc giải phóng khỏi một cảnh nô lệ, đã được thực hiện do quyền năng của Thiên Chúa, và trong công trình giải phóng này, Con Thiên Chúa nhập thể đã đem chính mạng sống mình mà đền bù[1](1)
Cứu chuộc (từ Nôm): Thuật ngữ Kitô Giáo dùng để dịch chữ redemption trong La ngữ, chỉ “công cuộc cứu thế do Đức Chúa Giêsu Kitô thực hiện. Theo nghĩa đen, cứu chuộc là giải thoát hay chuộc lại. Bị nô lệ tội lỗi, nhân loại chẳng khác nào bị cầm tù.  [ . . .] Trước tình cảnh đó, cuộc khổ nạn của Đức Kitô chẳng những đủ mà còn thừa sức đền bù cho tội con người và cho hình phạt phải chịu vì tội ấy. Có thể nói, cuộc khổ nạn của Đức Kitô là tiền chuộc hay một cái giá phải trả để giải thoát con người khỏi hai ràng buộc ấy. Đức Kitô đền tội không phải bằng cách trả tiền nhưng bằng cách cống hiến cái đáng giá nhất là chính bản thân Đức Kitô. Vì thế cuộc khổ nạn của Đức Kitô được gọi là sự cứu chuộc nhân loại”[2](2)
Nhiều tài liệu nghiên cứu trong giới Ki-Tô giáo phân tích 3 chữ “Cứu độ, “”cứu rỗi” và “cứu chuộc”[3](3), cho thấy, một các khái quát, 3 chữ này đồng nghĩa. Nhưng khi tìm hiểu sâu hơn, thì từ “cứu chuộc” thích hợp với sứ mạng của Đức Giê-Su Ki Tô. Bởi Ngài đã đem chính mạng sống (hay cái chết thảm khốc nhứt)  để  “đền bù”, “trả giá”, hầu “chuộc” con người ra khỏi kiếp nô lệ cho tội lỗi.
Qua Kinh Thánh, và qua Giáo lý cùng những minh thị Đức Tin của giới Ki Tô hữu, chúng ta đều tôn kính  đức hy sinh của Ngài, nhưng khi gọi Ngài là “Đấng Cứu Chuộc” , ta phải suy ngẫm ý nghĩa của sứ mạng “chuộc tội” ấy.
_ Có thể nào chỉ đơn thuần bằng sự cống hiến thân xác của một con người mà đủ chuộc hết tội lỗi của loài người chăng?
_ Có Ki Tô hữu viết: vì thân xác của Người là thân xác mầu nhiệm, không như của kẻ bình thường.
Cũng  có thể giải đáp băn khoăn đó theo Bản thể luận của Thánh giáo Cao Đài rằng:
 “Con là một Thiêng liêng tại thế,
 Cùng với Thầy đồng thể Linh quang;
Khóa chìa con đã sẵn sàng,
Khi vào cõi tục, khi sang Thiên đình.”[4] (4)

“Ôi Trong bức màn vô minh có biết bao điểm linh quang chói sáng để phá tan cảnh tượng mờ ám hãi hùng. Điểm linh quang ấy không chi lạ, là chúng sanh, là chư hiền, là Thiên tánh của bản thể vũ trụ “[5] (5)

 Vậy Giê-Su Ki Tô là Con Một của Thiên Chúa thì Người thuộc về Bản thể của Chúa Cha và đồng Bản thể với cả chúng sanh, thì sự hy sinh của Người có một giá trị cứu chuộc tối thượng. Hơn nữa, chúng ta lại nhớ rằng, trước khi bị trăn mình trên thập tự giá, Người đã trải qua quá trình rao giảng “tin mừng” cho thế gian và thu phục 12 Thánh Tông đồ,chửa lành bệnh nan y cho nhiều người khốn khổ. Nhất là Người mặc nhiên xưng mình là Con Thiên Chúa. Phải chăng Người đã chấp nhận cái chết đau thương trước khi bị kẻ nghịch lên án? Chấp nhận nhục hình để đổi lấy ơn tha tội của Chúa Cha cho đàn con chiên đã biết hối cải tội lỗi. Vậy Giê-Su Ki Tô đã bắt đầu chuộc tội cho loài người ngay từ khi sanh ra trong máng cỏ, nơi nghèo khó giữa bao kẻ ác lăm le giết hại.
_Đức Ki-Tô đã chứng tỏ rằng, chỉ có Con Thiên Chúa mới có đủ quyền năng cứu chuộc.Vậy cái giá “chuộc tội” đã được trả bằng “tin mừng” Chúa Con đã xuống thế gian đem tình thương cứu rỗi nhân loài, cộng với linh năng “điểm đạo” cho tất cả những ai tin kính Chúa Trời.
_ Có sách viết: “Qua nỗi đau đớn và cái chết của Ngài, Đấng Ky Tô đã chuộc trả các tội lỗi của tất cả nhân loại với điều kiện là phải có sự hối cải của cá nhân.”[6] (6)
 __ Vì sao phải có điều kiện hối cải? Phải chăng sự hối cải là sự bắt đầu thay thế hạt giống Ác bằng hạt giống Thiện. Và từ lúc hạt giống Thiện nẩy nở, rồi trưởng thành, công năng “cứu chuộc” mới có hiệu quả và hoàn thành bằng sự “sống lại” đời đời của linh hồn. Giê-Su Ki Tô chết rồi “Phục sinh”, phải chăng đó là một ẩn dụ của sự sống lại đời đời ấy?
Chúa Ki Tô về Trời, các Thánh Tông Đồ ở lại tiếp tục sứ mạng “gieo giống”, và lần này là “Cứu độ” hay “Cứu rỗi” (Salvation [en]) chứ không phải “Cứu chuộc” (Redemption [en]). Vì sứ mạng cứu chuộc đã thuộc về Giê-Su Ki Tô. Các Giáo Hội Cơ Đốc vẫn đang tiếp tục sứ mạng gieo giống đó. Đồng thời các tôn giáo khác vẫn đang “cứu độ” theo chân truyền của các Đấng Giáo chủ mà hạt giống gọi là “Đạo tại tâm”, là Lương tâm, là Phật tính hay Nhân bản.
Những vĩ nhân trên thế giới dù theo tôn giáo hay không tôn giáo, đã trở nên cứu tinh của một dân tộc hay của loài người do đã phát huy được Nhân bản thọ bẩm từ Thượng Đế, điển hình như Cựu Tổng Thống Nelson Mandela.
Đối với Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ, Cứu độ, Cứu rỗi, hay Cứu chuộc đều là SỨ MẠNG ĐẠI THỪA  trong Mục đích “Thế đạo đại đồng, Thiên đạo giải thoát”
TH.CH.
Mùa Giáng Sinh 2013





[1] Dictionnaire de la Foi catholique (P. Oury), tr. 202: http://www.htth.org/so35/351_cong_cuoc_cuu_do.htm_ftnref2).
[2] Từ điển Công giáo phổ thông, khuyết danh, dịch từ Pocket Catholic Dictionary của John A Hardon, SJ., Image Books, New York, 1985.
[3] Cứu Chuộc ? Cứu Rỗi? Cứu Độ? - Giáo phận Đà Lạt www.simonhoadalat.com/.../65CuuChuoc-CuuRoi-Cu.

 [4] Đức Ngọc Hoàng Thượng Đế; Thiên Lý Đàn, Tuất thời, 14-01 Bính Ngọ (04-02-1966); Thánh Giáo Sưu Tập 1966-1967, tr.36.

 [5] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Huờn Cung Đàn, 01-8 Ất Mão (17-7-1963)
[6] 6.  Sự Cứu Chuộc  http://www.lds.org/general-conference/print/2011/10/redemption?lang=eng&clang=vie-
LeGrand R. Curtis Jr. Thuộc Nhóm Túc Số Thầy Bảy Mươi

Lê Hoàng (thực hiện)  
12:39' PM - Chủ nhật, 17/03/2013
"Nước ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự ti quá".
"Nước ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự ti quá".
 VƯƠNG TRÍ NHÀN
"Lớp trẻ hiện nay mang trong mình cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra... Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta luôn đón chờ những tài năng trẻ". Nhà nghiên cứu văn hoá Vương Trí Nhàn chia sẻ.
• Vương Trí Nhàn: "Dân tộc Việt là khối tự phát khổng lồ"
Lanh, khôn, nhưng thiếu chắc chắn
- Có nhiều ý kiến khác nhau về lớp trẻ bây giờ: cả lạc quan lẫn bi quan. Còn ông, ấn tượng chung về họ ở ông ra sao?- Ở bạn trẻ bây giờ, cảm giác tự do rất mạnh. Hơn hẳn cái đó ở bọn tôi. Thời trước, chúng tôi rón rén, khép nép, cái gì cũng sợ. Chúng tôi chờ đợi được cho phép làm... mà vẫn vui vẻ với điều đó.

Các bạn giờ sống với cả thế giới rộng lớn, nhiều bạn có cảm giác mình là công dân thế giới. Chúng tôi xưa quanh quẩn trên mảnh đất quen thuộc. Nhớ lần đầu đi qua biên giới thì tim đập thình thịch.

Song đằng sau vẻ rất lanh, rất khôn, tiếp cận và hiểu biết nhiều, lớp trẻ bây giờ lại gợi trong tôi một cảm giác thiếu chắc chắn, trên đại thể lại lờ mờ, thiếu ước mơ lớn. Hình như họ có cảm giác bi quan, không bao giờ đạt được lý tưởng cao cả nữa.

Họ có thể phóng đi rất nhanh để rồi chả biết làm gì ở cái nơi vừa đến. Đằng sau cái vẻ vội vã của họ hình như ẩn giấu một nỗi thèm thuồng, chỉ sợ không được hưởng hết mọi lạc thú ở đời. Trong sự vội vã ấy, họ lại không có khả năng dò vào chiều sâu của cuộc sống.

Tôi đã nói người mình là một khối tự phát và lớp trẻ thường là lớp người nhạy cảm nhất, dễ gây bất ngờ nhất. Lớp trẻ hiện nay mang trong nó cả một tiềm năng ghê gớm lẫn cả tai hoạ tiềm tàng. Nếu không biết khai thác, thật khó đoán biết điều gì sẽ xảy ra.

- Ông có thể cắt nghĩa hiện tượng này?
- Tuổi trẻ bao giờ cũng bị ảnh hưởng ngang bởi tinh thần thời đại nhiều hơn là ảnh hưởng dọc từ thế hệ cha ông. Mà thời đại ta nói chung là thời đại của cái gì đó vỡ ra dang dở và chưa được sắp xếp lại.

Nước ta vẫn đang trên đường phát triển, nói theo thuật ngữ xã hội học là trong quá trình chuyển đổi. Con người bước từ chỗ tối ra chỗ sáng, nên đôi khi cảm giác vẫn còn bị ngợp và chập choạng, lúc thì tự tin quá, lúc lại tự ti quá. Cái này thấy rõ ở giới trẻ. Tôi nhớ một nhân viên tuyển dụng nước ngoài thường tiếp xúc với SV mới ra trường, có nhận xét, SV ta nhiều khi nói nhiều điều mà mình không biết, đến lúc hỏi kỹ thì lại trở nên lúng túng.

So với lớp trước, lớp trẻ hiện nay có cảm giác về tự do tốt hơn, nhưng nhiều lúc điều đó đồng nghĩa với bơ vơ, mất phương hướng, không xác định được mình.

Trong nhiều trường hợp, họ hiểu rất sai về tự do. Tự do không phải là bột phát, muốn làm gì thì làm. Mà tự do là sự hiểu biết chung về bản thân, về hoàn cảnh và cách sống thích hợp với hoàn cảnh, đồng thời khẳng định bản thân mình.

Tự do cao nhất là tự do về mặt tinh thần, liên quan đến nội lực con người, sự phong phú trong tinh thần của họ, chứ tự do không phải là lăn ra đường để khẳng định cái tôi. Đa số giới trẻ hiện nay, tự do bề ngoài thì có nhưng sâu sắc bên trong thì không. Điều này dẫn đến việc họ không tìm được cách khẳng định mình, mà trút cái gọi là tự do vào những hành động ngông cuồng bề ngoài.

- Nói một chút về sự mất phương hướng của lớp trẻ. Ở Mỹ từng có một "thế hệ vứt đi" sau Thế chiến I, và một thế hệ hippy trong chiến tranh Việt Nam, mất niềm tin vào cuộc sống. Ở Nhật cũng có một thế hệ khủng hoảng niềm tin... VN trải qua một cuộc chiến lâu dài, đang trên đường phát triển và sẽ phải đối mặt với cả những hiện tượng xã hội đi kèm. Ông có nghĩ một điều tương tự ở đây?
- Bất cứ một xã hội nào, sau thời gian chiến tranh, con người cũng đều cảm thấy đời là trống rỗng... Đây là bệnh chung của xã hội thời hậu chiến. Còn xã hội hiện đại mà phát triển nóng quá, giới trẻ chịu áp lực thì cũng dễ gây những hiệu ứng tâm lý. Ngay cái ham hưởng thụ, sống gấp... cũng là một biểu hiện.

So với các nước cũng trải qua chiến tranh, tôi cho là ở VN, tình hình tương tự còn trầm trọng hơn nhiều. Thiếu một sự quan tâm thường xuyên, thiếu một cái nhìn kỹ lưỡng, thiếu một sự nhận chân, như thế này sẽ luôn luôn có scandal chờ sẵn.

Tuy nhiên, ở VN, lối phản ứng của con người không bao giờ quyết liệt cả, mà thường tản mát, tự bó hẹp, làm nghèo mình đi.

Không nên dạy trẻ về một xã hội ảo tưởng
"Không nên dạy cho lớp trẻ về một xã hội ảo tưởng, mà nên phản ánh đúng thực tế của nó... Thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết". Ảnh: ZAIZAI
- Nếu làm phép so sánh tương quan với các thế hệ trước, ông đánh giá lớp trẻ bây giờ nằm ở vị trí nào?
- So với lớp cha anh thì họ đã có nhiều cái mới. Nhưng, so với yêu cầu thời đại thì còn đòi hỏi một sự phấn đấu cao hơn hẳn.

Đầu thế kỷ XX, nước ta có sự hội nhập mạnh mẽ với thế giới, với văn minh phương Tây.

Cả một lứa như Trần Trọng Kim, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Vĩnh, Phan Anh... thực sự tạo dựng được một nền tảng học thuật vượt xa các bậc tiền bối.

Trong văn học nghệ thuật, một thế hệ các nhà khoa học, các nhạc sỹ, hoạ sỹ, nhà văn... để lại dấu ấn mạnh mẽ.

Lấy đơn cử, các tác giả thời ấy như Nguyễn Công Hoan, Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam... có số lượng người đọc đông đảo, trước họ chưa từng có. Tức là sức ảnh hưởng vào thời đại của họ cũng rất lớn.

Thời Pháp thuộc, 15-16 tuổi người ta đã đi làm công chức và đã có sự trưởng thành về mặt xã hội. Không ai có thể nghĩ là Vũ Trọng Phụng chết non được, vì tuy mới 27 tuổi ông đã có một sự nghiệp hoàn chỉnh.

Sau đó, thế hệ thanh niên sinh khoảng trước sau 1930 và bắt đầu lập nghiệp từ sau giai đoạn Cách mạng tháng 8 1945 cũng để lại trong tôi một ấn tượng rõ rệt. Các nhà văn như Nguyễn Khải, Nguyên Ngọc, các nhạc sĩ như Nguyễn Đức Toàn, Huy Du… làm nên một bước chuyển mới trong sinh hoạt văn nghệ. Các tác phẩm để đời của họ thường được viết ngay khi họ mới 20-25, thậm chí còn trẻ hơn nữa.

- Thế còn thế hệ các ông, thế hệ thanh niên trong chiến tranh chống Mỹ, cũng là một thế hệ ưu tú mà nhiều người thường nhắc đến với một sự hoài niệm tự hào?
- Cuộc chiến tranh vắt kiệt sức của một thế hệ, nhưng không phủ nhận, nó cũng tạo động lực để thế hệ ấy phát huy được tốt nhất tinh hoa của mình.

Tuy nhiên, khơi dậy nội lực theo cách này giống như khai hoang, chỉ được 1 lần. Vấn đề là chúng ta phải thâm canh. Chúng ta phải đào tạo ra những người luôn có thể làm ra những thứ tinh hoa, 1 lớp người tinh hoa.

- Vậy, theo ông, làm sao để "thâm canh" trên thế hệ trẻ hiện tại 1 cách tốt nhất?
- Hiện tại, đã qua rồi cái thời xây dựng thông điệp qua những điển hình.

Trước đây, chúng ta cứ hay dạy trẻ "ở hiền gặp lành"... bây giờ phải có những câu khác, ở hiền đôi khi vẫn gặp ác như thường. Không nên dạy cho lớp trẻ về một xã hội ảo tưởng, mà nên phản ánh đúng thực tế của nó.

Thêm nữa, giới trẻ luôn tích tụ khối năng lượng lớn, làm sao để hướng cho họ sử dụng tốt nguồn năng lượng này. Ngay đằng sau những cuộc đập phá mà nhiều người lên án là một cảm giác muốn tự khẳng định. Mà xã hội chúng ta chưa chỉ cho họ con đường chân chính để làm việc này. Điều kiện để họ phát triển - trước tiên là một nền giáo dục hiện đại mang tinh thần nhân bản - thì lại càng chưa có.

Điều quan trọng nhất là cho họ thấy mọi nỗ lực chính đáng của họ sẽ được khẳng định. Nếu chỗ nào họ cũng cảm thấy bí, bị chặn lại... bởi những điều tiêu cực giới hạn như trong chuyện học hành, công việc... thì họ sẽ dễ nản. Trong xã hội, vẫn đầy rẫy nạn tham nhũng, vẫn đánh giá nhau về kinh nghiệm, sống lâu lên lão làng... điều này cũng làm sự vận động xã hội nói chung chậm lại.

- Cùng với sự phát triển xã hội và hội nhập, liệu những quy tắc xã hội đã chạy theo kịp sự vận động của thời đại?
- Lep Landao, nhà vật lý nổi tiếng có nói: "Thời đại của chúng ta là thời đại của những nghịch lý". Trong hoàn cảnh mọi sự đều thay đổi như vậy, không thể giữ mãi một kiểu nghĩ cũ.

Theo tôi, thời đại mới bây giờ đòi hỏi tất cả phải minh bạch hơn bao giờ hết. Nay là lúc mọi chuyện tốt xấu nên công khai ra, công nhận nó, chứ đừng đẩy nó vào bóng tối, lại làm phát triển ngầm hơn.

Tôi ví dụ, ở một số nước, người ta cho phép hoạt động mại dâm công khai miễn là có quản lý chặt chẽ. Còn ở ta, cho rằng mại dâm là trái với thuần phong mỹ tục, với quan niệm truyền thống phương Đông nên ta chỉ có cấm. Nhưng ai cũng thấy chỉ cấm được trên danh nghĩa, còn trong thực tế lại để lan tràn.

Hiện tại chúng ta vẫn duy trì nhiều sự quá khắt khe, mà tiếc thay, cái khắt khe ấy chỉ ở trên bề nổi, trong thực tế của chúng ta vẫn đầy rẫy những chuyện ấy. Đấy là một biểu hiện của sự giả dối.

Trong mắt tôi, vụ NSƯT Lê Vân thẳng thắn nhìn nói lên những gì chưa được trong gia đình là một tín hiệu tốt. Tất nhiên, chẳng có gì là trọn vẹn cả, được cái này hỏng cái khác. Người Việt hay thích tròn trịa, mà chính vì sự tròn trịa này nó làm ta bớt sắc đi.

- Sự phát triển kinh tế, xã hội luôn phải đối mặt với sự thay đổi các giá trị văn hoá. Theo ông thì làm gì để điều tiết cân bằng hiện tượng này, để giới trẻ dễ đi giữa 2 làn đường này?
- Trong văn hóa học, giá trị có 2 dạng. Các giá trị nhân bản thì thời nào cũng có, như sự tôn trọng xã hội, sống lương thiện, tự do... Lại có những giá trị chỉ thích hợp với từng thời đại Một số bài học truyền thống ta đang giáo dục cho lớp trẻ như phải biết vâng lời hoặc “tốt đẹp phô ra xấu xa đậy lại”... giờ không thích hợp nữa.

Lớp trẻ cần tự hình thành một hệ thống giá trị mới
"Chúng ta cũng phải xác định thẳng với người dân là cố gắng mấy cũng không bao giờ đón đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả giá thôi". Ảnh: ZAIZAI
- Ông đánh giá cao điều gì nhất ở lớp người trẻ?
- Thứ nhất là khả năng dám nghĩ khác và thứ hai là sự thẳng thắn.

Tôi nhớ mãi câu nói của một thanh niên. Ta hay khuyên họ “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây". Nhưng cậu "lý luận", đó là quan hệ bình đẳng chứ không phải mang ơn, hệ luỵ: "nhờ tôi mua quả bà trồng cây mới sống được". Cảm giác biết ơn là một giá trị truyền thống. Tôn trọng lao động của nhau, mỗi người có một giá trị đóng góp là một giá trị hiện đại, hợp thời.

Trong cách nghĩ ấy, rõ ràng là đã thấy một lớp người khác.

Trong phẩm chất của các bạn trẻ, tôi cũng đề cao khả năng có những khoảng đơn độc với chính mình. Người Việt Nam thường rất sợ sống một mình. Việc ít đọc sách, ít nghiên cứu cũng là một biểu hiện. Điều này thể hiện tính bầy đàn cao. Muốn có trí tuệ thì phải dám đơn độc.

- Hiện tại, xã hội Việt Nam đã phát triển nhiều so với trước, nhưng một cách thẳng thắn, chúng ta vẫn ở vị trí rất khiêm tốn, bị thế giới bỏ xa khá lớn. Theo ông thì có hướng nào để nhanh thu hẹp khoảng cách này không?
- Có những người chủ trương như đi tắt, đón đầu. Tôi không ủng hộ. Chúng ta cũng phải xác định thẳng với người dân là cố gắng mấy cũng không bao giờ đón đầu được. Cái chính là phải cố đi cho nhanh. Đi tắt thì sau này lại phải trả giá thôi.

Chúng ta đang phát triển nóng quá. Nếu cả xã hội sống tỉnh táo, bình tĩnh, tự nhận thức chính xác về mình, làm gì đó theo đúng chuẩn mực, thì bằng những bước đi chắc chắn như thế, chúng ta sẽ giúp cho lớp trẻ một cơ hội thuận lợi.

- Gác qua những điều kiện hỗ trợ của xã hội, vậy thì bản thân giới trẻ phải đáp ứng những yêu cầu gì để có thể thực hiện nhiệm vụ thời đại của mình?
- Thời đại đòi hỏi ở lớp trẻ một trí tuệ cao lắm. Lớp trẻ hiện tại cũng đang thiếu một khát vọng lớn lao, thiếu sự nghĩ rằng, mình phải ngang hàng với các dân tộc trên thế giới.

Tôi nghe kể một câu chuyện đàm đạo về giấc mơ. Người Việt bảo, mơ có một cái honda, ô tô. Người Nhật bảo: Tôi có ước mơ là thực hiện được ước mơ của bạn. Chuyện phiếm thôi, nhưng nó phản ánh tâm lý nhược tiểu của dân tộc mình.

Chúng ta phải có một cuộc tự vấn rộng lớn, xã hội đặt câu hỏi với chính mình. Nghĩ rằng, mọi vấn đề đều có thể có cách làm khác.

- Sự tự vấn ấy được thực hiện dưới hình thức nào?
- Chúng ta nên có nhiều những cuộc đối thoại với lớp trẻ. Từ chuyện của Lê Vân, tôi thấy cần có sự đối thoại thường xuyên giữa lớp trẻ - già. Đặt mình vào địa vị của nhau, lớp già thì nên biết điều hơn, đừng dạy dỗ nhiều, lớp trẻ nên thông cảm hơn, hiểu những khó khăn ngày hôm qua...

- Cuối cùng, ông đặt nềm tin vào giới trẻ chứ?
- Hồi ở Văn nghệ quân đội, ông Nguyễn Khải hay bảo tôi, nói chuyện với lớp trẻ là khó nhất, nhưng chinh phục được "hội nó" lại là thú vị nhất. Khi trưởng thành lên, tôi cũng thấy thế. Trong những cuộc đối thoại, được giới trẻ khen tôi cảm thấy yên tâm, không chừng mình còn sống được với tương lai.

Tôi đang viết đều chuyên mục "Thói hư tật xấu người Việt" trên báo Thể thao - Văn hoá. Tòa soạn bảo chính độc giả trẻ lại quan tâm hơn, điều đó động viên tôi rất nhiều.

Tôi nhớ, lúc tôi mới vào nghề, người phụ trách trực tiếp tôi là nhà văn Nhị Ca luôn bảo: "Nhất định các cậu phải làm được hơn chúng mình". Câu ấy không làm cho tôi kiêu căng, mà giúp mình phải cố lên để đạt được kỳ vọng. Ngày nay tôi cũng thường nói thầm như thế với các bạn trẻ xa gần.

Tôi muốn nói rằng, các bạn trẻ cứ yên tâm. Xã hội ta chưa phải là ưu việt, nhưng luôn đón chờ những tài năng trẻ.

Tuy nhiên, hiện giờ vẫn chưa hình thành được hệ thống giá trị mới. Lớp trẻ cần tự hình thành cho mình, trong sự tác động của xã hội.

- Cảm ơn ông.
Làm thế nào thực hiện một tôn giáo đại đồng
Bài nói chuyện của Swâmi Vivekânanda tại nhà thờ phổ-độ ở Pasadena, California vào ngày 28 tháng giêng năm 1900 (1)
QUÁCH BỬU LỘC dịch Việt ngữ
Đối với trái tim nhân lọai, không có sự tìm tòi nào đáng quan tâm hơn là việc nó đem lại cho chúng ta ánh sáng của Thượng Đế. Dù ở quá khứ hay trong hiện tại, không có công trình nghiên cứu nào mà con người đã dành nhiều sức lực như là công trình nghiên cứu về linh hồn, Thượng Đế và số phận của con người. Dù ta bị cuốn hút vào sinh họat hằng ngày, trong những tham vọng, trong công việc thì thỉnh thoảng vẫn có , ngay cả ở giữa lúc đấu tranh dữ dội nhứt, một thời gian ngừng nghĩ; tâm dừng lại và muốn biết điều gì đó bên kia thế giới. Đôi khi tâm thoáng thấy một vương quốc vượt ngòai tầm giác quan và nó cố gắng đến được vương quốc ấy. Điều đó đã xảy ra ở mọi thời gian và ở mọi nước. Con người muốn thấy thế giới bên kia, muốn phát triển. Tất cả những điều mà ta gọi là tiến bộ, tiến hóa, luôn luôn được đo lường bằng công cuộc nghiên cứu duy nhất này, bằng sự tìm hiểu về định mạng con người, sự tìm kiếm Thượng Đế.
Giống như ở các quốc gia khác nhau, những cố gắng của chúng ta trong lãnh vực xã hội thể hiện bằng những tổ chức xã hội khác nhau, thì sự mâu thuẫn về phần tâm linh nơi con người được biểu lộ bởi các tôn giáo khác nhau. Y như những tổ chức xã hội khác nhau luôn luôn đối chọi lẫn nhau, gây chiến liên tục thì những đoàn thể tâm linh cũng đã thường xuyên tranh đấu, không ngừng tranh cải với nhau. Những ai thuộc một tổ chức xã hội đặc biệt đòi hỏi chỉ riêng cho họ cái quyền được sống, và khi mà họ còn có thể, họ sử dụng quyền này gây thiệt hại cho kẻ yếu. Chúng ta biết rằng ngay đúng vào thời điểm này một cuộc tranh chấp khốc liệt về vấn đề đó tạo nên hỗn loạn tại Nam Phi. Tương tợ như vậy, mỗi một giáo phái đòi hỏi cho họ đặc quyền duy nhất về sự sống. Do đó chúng ta thấy rằng tôn giáo, tuy đã mang đến cho con người nhiều điều hữu ích hơn mọi thứ khác trên đời, cũng đã đem lại cho con người nhiều điều tồi tệ. Không có gì làm nhiều cho hòa bình và tình thương hơn là tôn giáo, cũng không có gì gây nên những sân hận không nguôi như là tôn giáo. Không có gì làm nhiều cho tình huynh đệ đại đồng giữa con người với nhau hơn là tôn giáo; cũng không có gì tạo nên những ác tâm hại người thật tàn nhẫn như là tôn giáo. Không có gì đã xây dựng nhiều tổ chức từ thiện, nhiều bệnh viện cho con người và ngay cả cho lòai vật hơn là tôn giáo, và không có gì ngập tràn thế giới bằng biển máu hơn là tôn giáo.
Chúng ta biết rằng dưới bề mặt lúc nào cũng có một số luồng tư tưởng, lúc nào cũng có những nhóm người, những triết gia,những người làm công việc đối chiếu các tôn giáo, đã và đang luôn cố gắng dẫn dắt các giáo phái ly khai vả bất hòa tới sự hòa đồng. Tại một số nước, những cố gắng này đã thành công tuyệt đỉnh, nhưng ta có thể nói rằng, trên bình diện thế giới, những cố gắng này đã thất bại. Một số tôn giáo đến với chúng ta từ thời thượng cổ, thấm nhuần tư tưởng là phải để cho mọi giáo phái hiện diện. Đối với những tôn giáo này, trong mỗi một giáo phái đều có một ý nghĩa, một tư tưởng lớn đã bám rễ sâu dày; vì thế mọi giáo phái đều cần thiết hữu ích cho thế giới và cần phải được khuyến khích. Vào thời đại chúng ta, ý tưởng này được chấp nhận, và thỉnh thoảng người ta cố gắng đem áp dụng nó vào trong thực tế. Những dự định này luôn luôn không thành công như chúng ta mong muốn, luôn luôn không hiệu quả như đúng ra nó phải được hiệu quả. Đôi khi, chúng ta còn tìm thấy ngay trong nỗi thất vọng của chúng ta là chúng ta còn tranh luận về vấn đề này nhiều hơn thế nữa.
Nếu bây giờ chúng ta để sang một bên sự thảo luận về tín điều và tự đặt mình theo quan điểm hợp lý, trước tiên chúng ta thấy rằng tất cả các nền tôn giáo lớn của thế giới đều chứa đựng một sức sống vĩ đại. Một số người nói rằng họ không biết gì hết, nhưng sự vô minh không thể được xem là điều biện hộ. Người nào nói là: “ tôi không biết chuyện gì xảy ra ở thế giới bên ngoài, cho nên điều gì xảy ra tại thế giới này là không có”, thì không thể được tha thứ. Những ai trong quý vị có quan tâm tới sự tiến hóa của tư tưởng tôn giáo trên toàn cầu biết rõ là không một tôn giáo lớn nào của thế giới bị khai tử; tốt hơn thế nữa, mỗi một tôn giáo lớn đều đang phát triển. Các tín hữu Thiên Chúa giáo gia tăng, các tín đồ Hồi giáo ngày càng nhiều hơn, những người Ấn giáo ngày càng đông. Các tín đồ Do Thái giáo cũng gia tăng; trong lúc lan tràn khắp nơi trên thế giới, và gia tăng nhanh chóng, khối người Do Thái giáo phát triển không ngừng.
Trên thế giới chỉ có một tôn giáo, một tôn giáo duy nhất trong số những tôn giáo lớn và cổ, đã bị suy thoái, đó là Bái Hỏa giáo (Zoroastrisme), tôn giáo của những người Ba Tư thuở xưa (Perse). Vào lúc mà Hồi giáo chinh phục  đất nước của họ, vài trăm ngàn người “ Perse” này đã tới tỵ nạn tại Ấn Độ, một số ở lại đất nước Ba Tư cổ. Nhóm người ở lại đã tan rã trước sự tiếp tục truy hại của những người Hồi, và họ còn lại không quá 10,000 người. Tại Ấn, họ có khoảng 70,000 người, nhưng con số này không gia tăng. Một lý do đầu tiên về sự việc này là họ không tìm cách truyền đạo. Vả lại, số dân ít ỏi này sống tại Ấn đã bị ngăn cản phát triển bởi tập quán hủ bại kết hôn giữa những anh chị em họ với nhau. Ngòai trường hợp  ngọai lệ đó, tất cả các tôn giáo lớn đều sống, mở mang và luôn luôn quy tụ thêm nhiều tín đồ. Chúng ta cần nhớ rằng các nền tôn giáo lớn đều rất là cổ xưa; không một tôn giáo lớn nào được thành lập vào thời đại chúng ta. Chúng ta cũng cần nhớ rằng tất cả các tôn giáo đã sinh ra trong đất nước nằm giữa sông Hằng (Gange) và sông Euphrate; không một tôn giáo lớn nào ra đời tại châu Âu, không một tôn giáo lớn nào sinh ra tại châu Mỹ; Tất cả đều có nguồn gốc châu Á và thuộc vào phần đất này của địa cầu chúng ta.
Nếu điều mà những nhà bác học nói là đúng- rằng sự sống sót của lòai biết thích nghi nhất với môi trường tạo thành nên sự chọn lọc -các tôn giáo ấy, bởi chính sự kiện là chúng vẫn còn tồn tại, chứng minh là những tôn giáo đó thích hợp cho một số người; có một lý do để mà những tôn giáo này sinh tồn, đó là chúng đã đem tới sự tốt lành cho nhiều người. Hãy xem Hồi giáo, nó lan tràn biết là bao trong một vài vùng đất của Nam Á, nó tràn ngập châu Phi nhanh chóng làm sao ấy. Phật giáo tiếp tục không ngừng lan rộng tại Trung Á. Tôn giáo Bà La Môn cũng như Do Thái giáo không tìm cách (làm người khác) cải đạo; dù vậy, một số sắc dân khác nhập môn dần dần vào Bà La Môn giáo, chấp nhận và thuận tùng theo những thói quen và tập quán của người Bà La Môn. Thiên Chúa giáo, như quý vị biết rõ, cũng bành trướng phạm vi của họ, nhưng tôi không chắc rằng những kết quả đạt được theo chiều hướng đó cũng quan trọng tương ứng với sức lực đã bỏ ra. Những cố gắng nhiệt tình truyền bá đức tin Ki-tô chịu một khiếm khuyết rất nghiêm trọng, mà vả lại ta cũng tìm thấy điều đó trong các cơ cấu Tây phương, đó là bản thân của tổ chức hấp thụ hết 90% năng lượng mà người ta cung cấp cho bộ máy; Có quá nhiều tổ chức. Thuyết đạo luôn là lãnh vực của người Châu Á. Các dân tộc Tây phương rất giỏi trong việc tổ chức, thành lập cơ cấu xã hội, quân đội, chính phủ, v.v. nhưng trong việc truyền đạo thì họ thật là lạc hậu so với những dân tộc châu Á. Dân châu Á luôn là chuyên gia trong việc phổ-độ. Họ biết làm thế nào để tiến hành và không sữ dụng một tổ chức quá phức tạp.
Như vậy tất cả các tôn giáo lớn hiện hữu, phát triển và ngày càng lan rộng là một thực tế trong lịch sử hiện đại của lòai người. Sự kiện này chắc chắn có một ý nghĩa. Nếu một đấng Tạo Hóa toàn tri và trọn lành đã muốn rằng một trong những tôn giáo này còn lại và những tôn giáo khác biến mất thì điều này đã xảy ra từ lâu. Nếu đúng là một trong những tôn giáo này là chánh và những tôn giáo khác là tà thì chánh giáo đã chinh phục toàn thế giới. Nhưng sự thực không phải vậy. Không một tôn giáo nào chiếm được thế giới. Mọi tôn giáo lúc thì phát triển, lúc thì suy thóai. Bây giờ quí vị hãy nghĩ tới điều này: Trong quốc gia của quý vị có hơn 60 triệu cư dân nhưng chỉ có 21 triệu người là tuyên bố tin theo một tôn giáo nào đó; sự tiến bộ không phải lúc nào cũng thuận lợi. Nếu làm thống kê, thì rất có thể là ở khắp các quốc gia, người ta sẽ thấy rằng các tôn giáo khi thì tiến triển khi thì thụt lùi.
Mặt khác, con số các giáo phái gia tăng không ngừng. Nếu một trong những tôn giáo đã có quyền khẳng định là nó có tất cả sự thật và rằng Thượng Đế đã ban trao tất cả sự thật trong một quyển kinh nào đó, thì tại sao lại có quá nhiều giáo phái? Không một nửa thế kỷ nào mà không xuất hiện thêm giáo phái mới với cùng một quyển sách. Nếu Thượng Đế đã để tầt cả sự thật vào trong một số kinh sách nào đó, Ngài sẽ không cho chúng ta những kinh sách này để mà chúng ta tranh luận về ý nghĩa của những đoạn kinh văn. Nhưng hình như là điều đó đang xảy ra. Tại sao? Cho dù Thượng Đế đã ban cho một quyển kinh chứa đựng tất cả sự thật về tôn giáo, mục đích cũng không đạt được bởi vì không một ai hiểu được quyển kinh đó. Hãy lấy quyển Kinh Thánh và tất cả những giáo phái hiện hữu thuộc Thiên Chúa giáo làm thí dụ; Cùng một đoạn kinh văn, mỗi giáo phái có cách giải thích riêng ; giáo phái nào cũng đều quả quyết là chỉ có họ là hiểu và khẳng định là tất cả những lời giải thích khác là sai. Và các tôn giáo khác cũng đều như thế. Hồi giáo có nhiều giáo phái, Phật giáo lại có nhiều tông, còn Ấn Độ giáo thì có hàng trăm chi. Nếu tôi lưu ý quý vị vấn đề này, là để chứng minh rằng tất cả mọi cố gắng làm cho toàn nhân lọai suy nghĩ giống nhau trong lĩnh vực tâm linh đã thất bại và sẽ mãi mãi thất bại. Ai đó đưa ra một lý thuyết mới, ngay cả trong thời đại chúng ta, sẽ nhận ra rằng các môn sanh sẽ phân ra thành 20 phái mới nếu ông rời xa họ 20 cây số. . Quý vị không ngừng nhận thấy điều này. Quý vị không thể làm cho mọi người chấp nhận cùng chung ý kiến; Đây là một sự kiện, và tôi cám ơn Trời là nó như vậy.
Tôi không chống đối bất cứ giáo phái nào. Tôi lấy làm sung sướng là có nhiều giáo phái hiện hữu và chỉ mong mỏi là luôn luôn có nhiều thêm giáo phái. Tại sao? Lý do thật đơn giản: nếu bạn và tôi và tất cả mọi người tại đây có những ý nghĩ giống nhau thì sẽ không còn một chút ý nghĩ nào mà chúng ta có thể có. Chúng ta biết rằng để tạo ra sự chuyển động cần phải có hai lực gặp nhau, đụng nhau. Chính sự va chạm của những tư tưởng, sự đa dạng của những tư tưởng làm nảy sinh ra tư tưởng. Nếu tất cả chúng ta nghĩ giống nhau, chúng ta sẽ như là những xác ướp Ai Cập trong viện bảo tàng, cái này đối diện cái kia, với một cái nhìn trống rỗng, vô thần; Chúng ta chỉ là thế thôi sao! Những xóay nước, những luồng xoáy ngược chỉ có trong một dòng nước sống động và chảy xiết. Không có những xóay nước trôn ốc trong nơi nước đọng và chết. Khi mà những tôn giáo chết đi thì các giáo phái cũng không còn nữa. Đó sẽ là sự bình yên, hòa điệu của những nấm mồ. Nhưng khi nào mà nhân lọai còn suy nghĩ thì còn giáo phái. Sự đa dạng là dấu hiệu của sự sống, và nó cần phải hiện hữu. Mong sao có bao nhiêu người thì có ngần ấy giáo phái để trong tôn giáo, mỗi người có một phương pháp cá nhân, một đường lối suy tư thích hợp cho riêng họ.
Trong thực tế, điều này đã xảy ra rồi. Mỗi người trong chúng ta muốn suy nghĩ theo cách của mình, nhưng hiện tượng rất là tự nhiên này lại không ngừng bị ngăn cản và tiếp tục bị cản ngăn. Nếu người ta không trực tiếp dùng sắt và lửa thì người ta lại tìm nhiều phương tiện khác để can thiệp. Hãy lắng nghe những điều của một trong những người giảng đạo giỏi nhứt ở Nửu Ước nói: ông giảng rằng phải chinh phục những người Phi Luật Tân vì đó là phương cách duy nhất Ki Tô hóa họ ! Tuy những người Phi Luật Tân này đã là người Công giáo, thế nhưng vị mục sư này muốn họ cải đạo thành người "presbytérien" ( 1 hệ phái Tin Lành quan hệ với xứ Écosse) và để đạt được mục đích ông sẳn sàng gây đổ máu và trút lấy trách nhiệm lên người dân của ông.Thật là kinh khủng ! Và người này lại là một trong những người giảng đạo uy tín nhất của quý vị, một trong những công dân biết nhiều thông tin hơn ai hết. Hãy nghĩ tới tình trạng thế giới như thế nào để mà một người như thế không xấu hổ lại diễn thuyết trước công chúng những điều phi lý như vậy; và hãy nghĩ tới hiện trạng thế giới ra làm sao mà những tín đồ vổ tay hoan hô những lời lẽ như thế! Văn minh là thế ư? Đó là bản năng khát máu lâu đời của con cọp, của người tàn bạo, của người dã man tái xuất nữa với những tên mới, trong những điều kiện mới. Việc này có thể nào khác đi chăng? Nếu hiện nay chúng ta đang sống trong tình trạng như vầy thì hãy nghĩ tới bao nỗi kinh hoàng mà xưa kia thế giới đã trải qua, khi mà mỗi một giáo phái cố đánh tan những giáo phái khác thành từng mãnh với mọi phương tiện sẵn có. Lịch sữ minh chứng cho chúng ta điều ấy: con cọp trong chúng ta chỉ thiếp đi chớ không chết. Ngay khi mà thời cơ tới, nó chồm lên giương nanh múa vuốt y như ngày xưa. Kề bên thanh gươm, cạnh bên những vủ khí vật chất, còn có những thứ vủ khí khủng khiếp hơn nhiều : là sự khinh miệt, lòng hận thù , sự ruồng bỏ của xã hội. Đó là những điều hết sức ghê tởm mà hiện nay ta có thể trút lên đầu những ai không đồng tư tưởng. Nhưng tại sao mọi người phải nghỉ y như chúng ta? Tôi không thấy có lý do nào cả. Nếu tôi là người bẩm sinh có lý trí, tôi phải vui mừng là những người khác không hoàn toàn nghĩ giống như tôi. Tôi không muốn sống trong một đất nước tương tự như một nghĩa trang. Tôi muốn là một con người trong thế giới của những con người. Những người suy nghĩ cần những ý kiến khác biệt. Những sự khác biệt này là bằng chứng của tư tưởng. Nếu tôi là người có tư duy, chắc chắn tôi muốn sống với những ai có tư duy, ở một nơi mà các ý kiến khác nhau. Người ta có thể tự hỏi làm sao mà tất cả các ý kiến khác nhau này đều có thể đúng ? Nếu việc này là đúng, thì sự xác nhận ngược lại phải sai . Làm thế nào mà hai giáo thuyết xung khắc với nhau mà có thể cùng một lúc đúng cả ? Đây cũng là câu hỏi mà tôi thử tự trả lời. Nhưng trước tiên tôi xin hỏi quý vị một câu khác : Có phải thật sự là tất cả những tôn giáo trên thế giới đối nghịch với nhau ? Tôi không muốn đề cập tới các hình thức bên ngoài bao phủ những tư tưởng lớn. Tôi không muốn bàn tới những đền đài, văn tự, nghi lễ, kinh sách, … khác biệt của mỗi tôn giáo; Tôi muốn nói tới cái hồn sâu kín nơi mỗi một tôn giáo. Mỗi tôn giáo đều mang bên trong một linh hồn, và cái hồn này có thể không giống với những linh hồn mà các tôn giáo khác chứa đựng, nhưng có đúng là có một sự mâu thuẫn ? Chúng nó trái ngược nhau hay là bổ túc cho nhau ? Vấn đề là đây. Thuở còn thơ ấu, tôi đã lưu ý đến vấn đề này và đã tôi đã nghiên cứu nó suốt cả cuộc đời. Vì cái kết luận mà tôi đã đi tới được có thể làm cho quý vị quan tâm nên tôi sẽ trình bày với mọi người. Tôi tin rằng các tôn giáo không mâu thuẩn với nhau mà bổ khuyết cho nhau. Có thể nói như vầy là mỗi tôn giáo chiếm giữ một phần của chân lý vĩ đại và hiến dâng tất cả tinh lực để sống và biểu hiện cái phần đặc biệt này của chân lý. Vậy những cố gắng của họ tương trợ với nhau và không lọai trừ lẫn nhau, đó là nguyên tắc. Các hệ thống nâng đở bồi bổ nối tiếp nhau; trong mỗi một hệ thống bàn bạc một tư tướng lớn, và những lý tưởng phải thêm vào những lỳ tưởng. Cứ như thế mà nhân lọai tiến bộ. Con người không bao giờ đi từ một sai lầm tới một sự thật, mà từ một sự thật tới một sự thật khác; đi từ một sự thật kém cao tới một sự thật cao hơn, nhưng không bao giờ từ sự sai lầm tới sự thật. Đứa con có thể phát triển hơn người cha, nhưng không vì thế người cha mất đi mọi ‎ý nghĩa. Đứa con tượng trưng cho người cha và điều gì đó hơn thế nữa. Có phải vì tình trạng hiểu biết của qu‎ý vị hiện nay cao hơn thuở còn bé mà qu‎ý vị phải chối bỏ thời thơ ấu của qu‎ý vị không ? qu‎ý vị nhìn nó bằng sự khinh bỉ và tuyên bố là nó đã thật là vô ích ? Không, bởi vì tình trạng hiện nay của qu‎ý vị tương ứng với những gì qu‎ý vị đã biết thuở ấu thơ và thêm vào các kiến thức mới nữa.
Chúng ta cũng biết rằng ta có thể thấy cùng một vật dưới những góc cạnh hầu như trái ngược nhau, nhưng không vì vậy mà những hình ảnh khác nhau này không thể hiện cùng một vật duy nhất. Giả thiết là một người đi về hướng mặt trời và chụp hình ở mỗi chặng hành trình. Khi trở về , anh ta sẽ mang thật nhiều hình mà anh có thể cho qu‎ý vị xem. Sẽ không có hai hình giống nhau, tuy nhiên mọi người sẽ chấp nhận đó là những hình của cùng một mặt trời được chụp dưới những góc cạnh khác nhau. Xin hãy chụp ngôi nhà thờ này bốn tấm hình từ bốn phía khác nhau: các hình sẽ cho thấy nhiều mặt khác nhau nhưng tất cả chỉ biểu hiện cùng ngôi thánh đường này. Cũng thế, tất cả chúng ta đều nhìn vào sự thật, nhưng chúng ta tự đặt mình vào những quan điểm khác nhau biến đổi tùy theo nguồn gốc, giáo dục, môi trường, v.v...Chúng ta chú tâm nhìn vào sự thật, chúng ta hấp thụ nó nhiều chừng nào mà hoản cảnh cho phép, chúng ta hiểu sự thật với trí thông minh của chúng ta, hiểu thấu sự thật bằng tâm, tô màu cho sự thật bằng con tim của mình. Chúng ta có thể biết được sự thật chỉ những gì được tiết lộ, chỉ những gì mà chúng ta có thể tiếp thu. Chính điều ấy phân biệt người này với người khác và đôi khi chính nó làm nảy sinh ra những ý kiến bất đồng; tuy vậy tất cả chúng ta đều thuộc về
Đạo.
Cho nên tôi nghĩ rằng tất cả các tôn giáo này là những lực lượng khác nhau nằm trong thiên cơ, phục vụ cho lợi ích của nhân loại; không một tôn giáo nào trong số ấy có thể chết, không tôn giáo nào có thể bị tiêu diệt. Giống như quý vị không thể triệt tiêu một sức mạnh của thiên nhiên, cũng như quý vị không thể hủy diệt bất cứ một sức mạnh tâm linh nào cả.
Qu‎ý vị đã thấy rằng mỗi tôn giáo đều sống động. Có khi nó thụt lùi hay có lúc nó tiến bộ. . Vào một thời đại nào đó, nó bị tước lấy nhiều vật trang sức; ở một thời đại khác, nó có thể lại được điểm tô bởi đủ vật trang hoàng, nhưng dù thế nào đi nữa, linh hồn vẫn luôn hiện diện và không bao giở có thể mất đi. L‎ý tưởng mà mỗi tôn giáo thể hiện, tiến tới trước một cách thông minh.
Nền tôn giáo đại đồng mà các triết gia và những người khác nữa, đã ước mơ ở khắp quốc gia đã có rồi. Nó ở nơi đây. Cũng y như tình huynh đệ đại đồng của nhân loại, tôn giáo đại đồng đã hiện hữu. Ai trong qu‎ý vị đã có thể làm những cuộc viễn du mà không tìm thấy ở mỗi dân tộc những người anh và người chị ? Tôi đã tìm thấy họ ở khắp nơi trên thế giới. Tình huynh đệ đã có rồi, chỉ vì có nhiều người không nhận ra nó và còn làm nó trở nên hỗn loạn khi lớn tiếng đòi hỏi những tình huynh đệ mới. Nếu những thầy tu hay những ai chịu trách nhiệm rao giảng đức tin các tôn giáo khác nhau chỉ muốn ngừng thuyết đạo trong vài khoảnh khoắc, chúng ta sẽ nhận ra tôn giáo này. Nó đang tại đây, nhưng những người này làm nó tiếp tục rối tung lên bởi vì đó là quyền lợi của họ. Ở mọi nước, quý vị sẽ nhận thấy rằng các thầy tu rất bảo thủ. Tại sao họ lại như vậy ? Rất ít thầy tu hướng dẫn quần chúng; đa phần lại bị quần chúng dẫn dắt, làm nô lệ và tôi tớ cho quần chúng. Nếu qu‎ý vị nói trời khô ráo, họ sẽ nói như thế với qu‎ý vị, và nếu qu‎ý vị nói trời tối, họ sẽ nói trời tối. Nếu quần chúng tiến về phía trước, các thầy tu phải tiến lên. Họ không thể nào ở lại phía sau. Cũng thế, trước khi trách các thầy tu- như ta thường có thói quen như thế - qu‎ý vị phải tự trách lấy mình. Qu‎ý vị chỉ hưởng được những gì mà quý vị xứng đáng có. Số phận của ông thầy tu muốn trao cho qu‎ý vị những ‎ý tưởng mới mẻ và tiên tiến và làm cho qu‎ý vị tiến bộ sẽ ra sao ? Con cái ông ta có thể sẽ chết đói, còn bản thân ông cũng rách rưới. Ông ta cũng bị chi phối bởi những qui luật thế tục như quý‎ vị. “ Nếu qu‎ý vị muốn đi tới, chúng ta hãy tiến tới trước”, đó là điều ông ấy nói với qu‎ý vị. Đương nhiên có những người mà tâm hồn đặc biệt không để cho dư luận quẩn chúng làm cho sợ hãi. Họ thấy được sự thật và chỉ mến chuộng lẽ thật mà thôi. Sự thật đã xâm chiếm họ, sở hửu chủ lấy họ, có thể nói như vậy, và họ không thể nào làm khác hơn là tiến về trước. Những người này không bao giờ nhìn về phía sau, đối với họ không có quần chúng hay là đám đông; đối với họ, chỉ có Thượng Đế là hiện hữu, Ngài là Ánh Sáng phía trước và họ đi theo Ánh Sáng này.
Tôi đã gặp một người “mormon” tại đất nước quí vị, đã cố gắng khiến tôi chấp nhận theo đạo ông ta. Tôi nói với ông ấy: “ tôi rất tôn trọng các ý kiến của anh, nhưng có vài điểm chúng ta không đồng ý với nhau. Tôi thuộc về dòng tu còn anh lại tin vào sự đa thê. Tại sao anh không đi truyền đạo tại Ấn độ ?” Anh ta hoàn toàn ngạc nhiên và trả lời tôi:
“ ông ủng hộ sự độc thân tuyệt đối, còn tôi thì chủ trương đa thê vậy mà ông lại khuyên tôi tới đất nước ông ?
- Đúng thế, bởi vì đồng hương của tôi sẵn sàng thích thú với mọi tư tưởng tôn giáo từ bất cứ nguồn nào. Tôi mong là anh đi Ấn độ, đầu tiên bởi vì tôi hoàn toàn là người ủng hộ có nhiều giáo phái, hơn nữa có rất nhiều người tại Ấn còn chưa tìm thấy điều họ mong muốn trong bất cứ giáo phái nào đã hiện hữu. Bởi thế, họ chẳng muốn làm gì hết với tôn giáo.
Tại khách sạn, nơi mà thực đơn rất là phong phú, mọi người đều có cơ hội là có thể ăn được no bụng. Bởi thế tôi mong rằng các giáo phái gia tăng khắp các nước để mà càng có nhiều người có cơ hội hướng tới tâm linh. Không nên tin rằng con người không chuộng tôn giáo, dù sao cũng không phải là ý kiến của tôi. Chính là những người giảng đạo đã không có khả năng đáp ứng những điều mà con người đòi hỏi. Cũng chính người này mà những thầy tu xem là vô thần hay duy vật hay bằng bất cứ danh hiệu khác, có thể gặp một người nào đó mang tới sự thật mà anh ta cần tới, và trở nên người mộ đạo nhứt nơi anh sinh sống. Chúng ta chỉ có thể ăn bằng cách phù hợp với chúng ta. Chẳng hạn như là chúng tôi, những người Ấn giáo, dùng ngón tay mà ăn. Các ngón tay chúng tôi mềm dẻo hơn các ngón tay của quý vị. Bàn tay của quý vị không thể làm được những điều như bàn tay của chúng tôi. Cho người ta ăn vẫn chưa đủ, mà mỗi người cần phải ăn theo cách của mình. Có được những tư tưởng tâm linh chưa đủ đâu, nó cần phải đến với mọi người bằng phuơng pháp thích hợp với mỗi cá nhân. Cần phải nói chuyện với mọi người bằng tiếng nói riêng của họ, bằng ngôn ngữ của tâm hồn họ và chỉ có thế ta có thể cho họ cái mà họ cần thiết. Khi một người tới nói chuyện với tôi bằng tiếng nước tôi và dạy đạo cho tôi bằng ngôn ngữ này, tôi hiểu và thấu triệt đạo lý ngay lập tức. Đây là một sự kiện quan trọng.
Vậy thì chúng ta thấy rằng nhân sanh có đủ loại và các trình độ căn trí khác nhau; Chúng ta cũng thấy được trách nhiệm của tôn giáo đối với những việc này! Có người đưa ra hai hay ba chủ thuyết rồi ham muốn tôn giáo của anh ta phải thỏa mản toàn nhân loại! Anh tiến vào thế giới, vào trong cái sở thú vĩ đại này của Thương-Đế với một cái lồng nhỏ trên tay, và la to : « Ông Trời cả voi và tất cả mọi loài phải vào trong chiếc lồng này. Dù ta phải chặt voi thành từng mảnh thì nó cũng phải vào lồng. ».Cũng có thể có một giáo phái có vài tư tưởng hay và tuyên bố : « Tất cả mọi người phải vào đây! Nhưng lại không có đủ chỗ cho mọi người. Không sao! Cứ cắt họ thành từng mảnh; nhét tất cả vào bằng mọi cách . Tôi tin là những ai mà không vào thì sẽ bị đọa địa ngục. » Tôi chưa bao giở gặp một nhà thuyết đạo cũng như giáo phái nào dừng lại trong giây lát để tự hỏi : « tại sao nhân sanh không nghe chúng ta .» Thay vì thế, họ thóa mạ và nói : « Những kẻ này hỏng cả rồi .» Họ chẳng bao giờ tự hỏi : « tại sao nhân sanh không nghe theo lời chúng tôi ?Bằng cách nào tôi có thể làm cho nhân sanh thấy được chân lý? Tại sao tôi khộng thể nói đạo bằng ngôn ngữ của nhân sanh? Tại sao tôi không thể làm nhân sanh sáng mắt ra ? » Dù thế họ cần phải được biết rõ hơn và khi mà họ thấy là không ai nghe họ cả, thì nếu mà họ nguyền rũa ai thì đó chính là bản thân họ mà thôi. Thế nhưng bao giờ cũng là lỗi của người khác! Họ không bao giờ tìm cách làm cho giáo phái của họ đủ rộng lớn để mọi người có thể gia nhập.
Vậy là chúng ta thấy ngay tại sao một tinh thần hạn hẹp như thế lại có được, tại sao thành phần luôn muốn là tổng thể, tại sao  đơn vị nhỏ nhoi hữu hạn luôn muốn là vô hạn. Hãy xem các tiểu giáo phái này, ra đời nhiều lắm vài trăm năm, chính trong những bộ óc tuyệt đối có thể phạm sai lầm, lại ngạo mạn quả quyết là suốt thông đạo lý khôn cùng. Hãy xem sự khoác lác này! Nếu như nó chứng minh được điều gì, thì đó là tính cao ngạo của nhân loại. Không có gì đáng ngạc nhiên hết là những sự kiêu căng như vậy lúc nào cũng dẫn đến sự thất bại; nhờ ơn Trời; những sự ngã mạn luôn chấm dứt bằng sự thất bại. Trong cùng loại ý tưởng này, các tín-hữu Hồi giáo luôn đi trước người khác : Những tiến bộ nhỏ bé của họ được thực hiện bởi những đường gươm. Kinh “Coran” trong tay này và nghĩa trang thì trong tay khác. “ Chấp nhận kinh Coran hay là anh sẽ chết; Đây là lựa chọn duy nhất mà anh được phép làm!” Lịch sữ chỉ cho chúng ta sự thành công vượt bực mà họ đã có được: trong 600 năm, không có gì có thể chống lại, nhưng cái ngày mà họ phải ngừng lại đã đến. Những tôn giác khác muốn dùng chung phương thức  thì rồi cũng như thế.
Chúng ta thật sự là những trẻ thơ, chúng ta luôn luôn quên bản chất của con người. Khi mà chúng ta mới bước vào đời, chúng ta nghĩ rằng số mệnh của chúng ta phi thường, và không chi có thể ngăn cản chúng ta tin tưởng vào điều ấy, nhưng khi già yếu, chúng ta lại suy nghĩ khác đi. Các tôn giáo cũng thế. Thuở tuổi thanh xuân, lúc chúng vừa mới chớm phát triển, chúng tưởng tượng là có thể cải tạo hoàn toàn tâm linh con người trong vòng vài năm, giết chóc và tàn sát là đủ để dành được những tân tín đồ bằng sức mạnh. Thế rồi họ thất bại, vậy nên họ bắt đầu nhìn thấy sự việc xác đáng hơn. Lành thay, chúng ta thấy là các giáo phái này đã không thành công thực hiện những dự tính ban đầu. Quý vị hãy thử tưởng tượng điểu gì sẽ xảy ra vào ngày hôm nay cho nhân loại nếu một trong những giáo phái cuồng tín này đã thành công thống trị toàn thế giới. Cám ơn Trời là họ đã thất bại!
Mỗi một giáo phái thể hiện một sự thật vĩ đại; mỗi một tôn giáo tương ứng với một sự toàn hảo đặc biệt; tương ứng với sự vật mà trong nó có linh hồn. Tôi lại nhớ đến một câu chuyện cổ tích. Có một lần vài nữ yêu (ăn thịt người) có thói quen là giết người và làm ác bằng đủ cách; nhưng người ta không thể diệt trừ các nữ yêu này. Thế nhưng có một ngày có người phát hiện là các linh hồn của các nữ yêu ở trong một số con chim, và ngày nào mà các con chim này còn sống thì không có gì có thể hủy diệt các nữ yêu. Có thể nói rằng cũng giống như thế, mỗi người chúng ta đều có một con chim có linh hồn; mỗi người đều có lý tưởng, sứ mạng phải thực thi trong cuộc đời. Mổi một người là hiện thân của lý tưởng nào đó, sứ mạng nào đó. Cho dù quý vị mất đi cái chi khác, thì không có gì có thể tiêu diệt được các quý vị khi mà lý tưởng không bị đánh mất, sứ mạng không bị hủy hoại. Sự giàu sang có thể đến với quý vị rồi tiếp theo lại ra đi, những nổi bất hạnh có thể chất thành núi cao tới tận trời xanh, nhưng khi mà lý tưởng của quý vị còn nguyên vẹn, thì không có gì có thể sát hại quý vị. Quý vị có thể thấy bao năm tháng, thậm chí hàng trăm năm chất chồng; nếu như trong tim quý vị sứ mạng này vẫn còn trẻ trung, tươi mát thì ai là  người có thể giết chết quý vị? Nhưng nếu như lý tưởng bị đánh mất, sứ mạng đã bị mai một thì không có gì có thể giải cứu quý vị. Tất cả sự giàu sang và tất cả quyền lực của thế giới sẽ không cứu vản được quý vị. Thế nhưng các dân tộc là gì nếu không là những kết tụ của nhiều cá nhân ? Mỗi dân tộc cũng vậy, trong sự hòa hợp của các giống dân,  đều có một sứ mạng riêng phải hoàn thành; Ngày nào mà một dân tộc còn giữ được lý tưởng của mình thì không có gì có thể làm tan biến dân tộc này; nhưng nếu nó chối bỏ sứ mạng của mình trong cuộc đời và say mê với việc khác thì nó sẽ không tồn tại lâu dài và rồi sẽ tiêu vong.
Các tôn giáo cũng sẽ giống thế. Việc mà các cựu tôn giáo vẫn còn sống mãi đến hôm nay chứng tỏ rằng các tôn giáo phải còn gìn giữ trọn vẹn vai trò thuộc về mình; mặc cho tất cả những lỗi lầm, tất cả những khó khăn, tất cả những tranh cải, mặc cho tất cả những dạng thức và hình ảnh đã được khắc ghi vào mình thì mỗi một tôn giáo đó đã gìn giữ con tim thánh khiết của họ, một con tim đập, sống, hành động. Không một tôn giáo nào trong số ấy  đã lãng quên sứ mạng trọng đại cũng là lẽ sống của họ. Thật là tuyệt vời khi nghiên cứu các sứ mạng này. Hãy lấy thí dụ về Hồi giáo. Không có tôn giáo nào trên thế giới mà tín hữu Ki-Tô thù hận hơn là Hồi giáo. Họ nghĩ rằng đó là hình thức tôn giáo xấu nhứt trong lịch sử loài người. Nhưng ngay từ lúc mà một người trở nên tín đồ Hồi giáo, thì cả Hồi giáo giang rộng vòng tay tiếp nhận anh như huynh đệ, không một chút kỳ thị; đó là điều không có tôn giáo nào khác thực hiện. Nếu một trong những người da đỏ Bắc Mỹ của các anh nhập môn vào đạo Hồi thì quốc vương Thổ Nhĩ Kỳ  sẽ không có chút nào phản đối mà ăn trưa với anh ta. Nếu anh ta thông minh thì không có địa vị nào bị cấm đoán. Ngược lại tại đất nước quý vị, tôi còn chưa hề thấy nhà thờ nào mà nơi đó người nô lệ da đen và người da trắng có thể quỳ cầu nguyện cạnh bên nhau. Xin hãy suy nghĩ tới điều này: Hồi giáo xem mọi giáo phái là bình đằng. Chính vì điều này mà quý vị thấy Hồi giáo hoàn mỹ. Trong nhiều đoạn kinh “Coran”, quý vị tìm thấy nhiều quan niệm về đời sống rất là  nhục dục. Có gì quan trọng đâu! Điều mà tôn giáo của Mahomet tới rao truyền cho thế giới chúng ta là tình huynh đệ thân ái thực hành của những ai cùng chung tín ngưỡng này. Chính đây là yếu tố căn bản của Hồi giáo; tất cả những quan niệm khác về trời, về cuộc đời, v.v. không phải là Hồi giáo, những điều này chỉ là bổ sung cho giáo lý Hồi giáo mà thôi.
Cũng thế quý vị tìm thấy được một ý niệm về quốc gia, về tinh thần tâm linh, nơi người Ấn giáo. Quý vị cũng sẽ không thấy được trên thế giới ở bất kỳ tôn giáo khác, ở bất kỳ quyển kinh nào khác, mà dành nhiều sức lực để định nghĩa khái niệm về Thượng Đế như vậy. Những người Ấn giáo đã tìm kiếm cho linh hồn một định nghĩa mà không có chi ở cõi trần này có thể làm hoen ố. Người tu phải thánh thiện, chơn linh mà được xem là chơn linh thì không phải được làm bằng con người. Trong Ấn Độ giáo, cùng với khái niệm Nhất thể, thì sự sáng tạo của đức Thượng Đế, tính hiện hữu mọi nơi được truyền giảng khắp chốn. Tín hữu Ấn giáo thấy phi lý mà kể rằng Ngài ngự trên trời, v.v… Đó chỉ là một khái niệm mang tính cách và bóng dáng của nhân loại. Thiên đường nếu đã từng hiện hữu thì là nơi đây, và trong giây phút hiện tại. (p.141 TNHT)Trong thời gian vô tận thì mỗi giây phút đều quý báu như nhau. Nếu quý vị tin tưởng vào đức Thượng Đế, quý vị có thể thấy Ngài ngay bây giờ. Chúng tôi cho là tôn giáo khởi đầu khi mà điều gì đó thực sự trở nên hiện thực đối với chúng ta, nó không phải là sự đặt niềm tin vào những chủ thuyết hay là sự tán thành của trí tuệ cũng như là đưa ra vài điều tuyên bố. Nếu một đấng Thượng Đế hiện hữu thì quý vị đã thấy chưa ? Nếu quý vị trả lời chưa thì lấy quyền gì mà quý vị tin tưởng vào Ngài ? Nếu quý vị giả thuyết rằng đã có một đức Thượng Đế thì tại sao lại không miệt mài say mê thử nhìn thấy Ngài ? Tại sao quý vị không phủi hết muôn sự ở cõi trần này và không trọn hiến đời mình cho công cuộc tìm kiếm duy nhất đó? Buông xả thế sự và sống Đạo là hai tư tưởng lớn của Ấn Độ và cũng bởi vì nước Ấn còn bám chặt vào hai tư tưởng này mà tất cả những lỗi lầm phạm phải trở nên vô cùng nhỏ bé.
Với người Ki-Tô, tư tưởng căn bản được rao giảng  cũng y như thế: “ Hãy tỉnh thức và cầu nguyện, bởi nước Trời gần đây” (2), có nghĩa là: hãy tinh lọc tinh thần và hãy sẳn sàng! Và tinh thần này không bao giờ chết. Quý vị biết rằng, những người Ki-Tô, dù trong những ngày đen tối nhứt, dù trong những nước Cơ Đốc mê tín nhất, luôn cố gắng chuẩn bị cho ngày Chúa đến, bằng cách cứu giúp đồng bào họ, xây dựng bệnh viện v.v… Khi nào mà tín hữu Ki-Tô còn tha thiết với lý tưởng này thì tôn giáo của họ sẽ còn tồn tại.
Bây giờ, có một lý tưởng vừa đến trong tâm trí tôi. Có thể đây chỉ là một giấc mơ; tôi không biết có bao giờ nó sẽ được thực hiện trong thế giới này hay không, nhưng đôi khi thà có một giấc mơ hơn là chết trong sự thật phủ phàng. Những sự thật vĩ đại, thì cho dù là ở trong giấc mơ, vẫn tốt hơn là một thực tế xấu xa. Vậy ta hãy cùng nhau mơ.
Quý vị biết rằng có nhiều xu hướng tinh thần khác nhau. Có thể là một người duy vật chỉ tin vào lý trí và những thực tế phàm gian; có thể là một người không hứng thú với âm thinh, sắc tướng; có người thì đòi hỏi những sự việc nghiêm túc, hợp lý, có tiếng vang, đạo đàm với bậc thiện trí thức và không hài lòng với việc khác. Cũng có những người Thanh giáo và Hồi giáo không chấp nhận thần tượng và hình ảnh nơi thờ phượng. Thật  tốt thay, nhưng người khác có thể nghệ sĩ hơn và cần một sự phô trương mỹ thuật, với những đường nét đẹp, những đường cong duyên dáng, muôn sắc màu, hoa lá, thiên hình vạn trạng; Người thì lại cần đèn cầy, ngọn đèn, với bao chi tiết và tất cả những lễ nghi linh tinh để họ thấy được Thượng-Đế; tinh thần họ tạo nên Thượng-Đế bằng những hình dáng bên ngoài giống như tinh thần quý vị sáng tạo ra Ngài bằng sự thông minh. Cũng có người sùng đạo, hồn họ cầu khẩn Thượng-Đế một cách điên cuồng; Ý tưởng duy nhất của họ là thờ cúng Thượng-Đế và ca ngợi Ngài. Lại còn có các triết gia xa lánh và chế giểu tất cả người khác: “ thật là đần độn, những người này sao mà lại nghĩ ra phương cách quan niệm Thượng-Đế ngớ ngẩn như thế chớ!
Họ chê cười lẫn nhau, nhưng mỗi người trong số họ đều có vị trí của mình trong thế giới này. Mọi tư tưởng khác nhau này, tất cả những loại người khác biệt này điều cần thiết. Nếu có một ngày phải có một tôn giáo đại đồng thì tôn giáo ấy phải đủ rộng lớn hầu cung ứng cho mỗi loại người kể trên thứ mà họ cần. Nó phải cho các triết gia sức mạnh của triết học, cho người sùng bái lòng mộ đạo, cho người chuộng lễ nghi tất cả những gì có thể cung cấp các biểu tượng huy hoàng nhất, cho thi sĩ trọn đủ cảm xúc mà họ có thể cảm nhận được, và còn thứ khác nữa. Để xây dựng một tôn giáo đủ rộng lớn, chúng ta phải trở về thời kỳ mà các tôn giáo bắt đầu xuất hiện và chấp nhận lẫn nhau. Vậy phương châm của chúng ta sẽ là chấp nhận chớ không loại trừ. Không phải chỉ là có khoan dung, bởi cái gọi là khoan dung thường là một sự xúc phạm và tôi không tin vào điều ấy. Tôi tin là phải chấp nhận quan điểm của người khác. Tại sao tôi lại là người khoan dung ? Khoan dung nghĩa là tôi tin quý vị sai lầm và tôi muốn để quý vị sống. Có phải chăng là lăng mạ khi nghĩ rằng tôi và quý vị cho huynh đệ mình quyền được sống ? Tôi chấp nhận tất cả các tôn giáo đã hiện hữu trong quá khứ và tôi kính yêu Thượng-Đế cùng với mỗi một tôn giáo dù cho họ thờ phượng Ngài dưới bất cứ hình thức nào. Tôi sẽ tới đền thờ Hồi giáo; tôi sẽ vào thánh đường ki-tô và quì trước thập tự giá; tôi sẽ vào chùa, nương trú vào đức Thế-Tôn và giới luật của Người. Tôi sẽ vào rừng, tọa thiền bên cạnh người Ấn giáo, khi mà họ đang tìm cách thấy được Ánh sáng soi sáng mọi con tim.
Không những chỉ làm tất cả những việc đó mà tôi sẽ còn giữ cho con tim mình rộng mở với tất cả những tôn giáo có thể đến sau này. Quyển kinh của cha Trời kết thúc rồi sao ? Hay đúng hơn là một sự mặc khải liên tục, luôn luôn nối tiếp phải không ? Đây là một quyển kinh báo được hình thành từ tất cả sự minh truyền chơn lý. Thánh Kinh, Kinh Vệ Đà (Védas), Kinh “Coran” và mọi kinh khác đều là những trang sách của quyển kinh ấy và còn hằng hà sa số trang phải lật. Tôi muốn quyển kinh này dành cho mọi tôn giáo. Chúng ta đang sống trong hiện tại, nhưng cần rộng mở với tương lai vô hạn. Chúng ta kết hợp những gì mãi mãi tồn tại trong quá khứ, vui mừng với ánh sáng của hiện tại và mở tất cả các cửa sổ của tim mình với những gì sẽ đến trong tương lai. Xin kính chào tất cả nhà tiên tri của quá khứ, tất cả những tâm hồn của hiện tại và tất cả những tâm hồn sẽ xuất hiện trong tương lai !
(1)            Bản dịch bài nói chuyện của Swâmi Vivekânanda với tựa đề là Comment réaliser une religion universelle,  Conférence faite en l’église universaliste de Pasadena, Californie, le 28 janvier 1900.
Bài này được in trong quyển Jânna-Yoga, trang 359-376, dịch từ tiếng Anh sang Pháp văn bởi Jean Herbert, 1936.
Nhà xuất bản Albin Michel, 1972.
22, rue Huyghens, Paris  (XIV e)