Thursday, February 13, 2025

THƯ NGÕ






THƯ NGÕ,


Thân gởi tất cả anh chị em toàn Cơ Quan,


Cơ Quan vừa trải qua một thử thách hết sức nặng nề có thể ảnh hường đến sự tồn vong của Sứ mạng Cơ Quan PTTGLDD, lẫn cơ đạo chung.


Trước nguy cơ đó, nếu chúng ta không bình tỉnh tìm ra giải pháp thích đáng mà quá dao động nội tâm, vô tình hay cố ý làm cho tập thể/cá nhân hoang mang, phát sinh những động thái nong nỗi, hậu quả nội tình trở nên phức tạp, CQ sẽ như con thuyền không bến (!)


Nếu phải bó tay, thì từ trên xuống dưới đều phải thọ tội duới chân Thầy và Đức Giáo Tông, và không còn mặt mũi nào nhìn lại đàn em đang trông chờ sự dẫn dắt trên đường hoằng giáo độ nhân như bài nguyện CQ mà tất cả luôn tâm niệm.


Bản thân tôi, với trách nhiệm gọi là đàn anh, ngày đêm trăn trở, mà có lẽ nhiều anh chị em cũng vậy, cố tìm phương giải quyết, nhưng trước cảnh nhân tâm bất nhất, núi sông ngăn cách, không thể quy trách núi cao hay sông cạn, mà phải làm sao bắt được nhịp cầu “hòa ái” để cho sông núi nối liền. Anh chị em cũng đã nghe, đã thấy nhắc đến hai chữ “hòa ái” chân tình này trực tiếp hoặc gián tiếp, còn thêm hai chữ “thanh tịnh” nữa, quả là cẩm nang của người tu, hơn nữa là người tập rèn tâm hạnh đại thừa.


Nhưng, thiển nghĩ, không chỉ nói “hòa ái”, hay “thanh tịnh” mà không giương cao ngọn cờ SỨ MẠNG CƠ QUAN để làm chủ định duy nhất và hiệp nhất thì rất khó hay không thể thanh tịnh hòa ái bởi núi vẫn là núi, sông vẫn là sông. Dù sao mỗi người có cái duyên bước vào Cơ Quan chính vì đã thấy và đã hướng về ngọn cờ thiêng liêng ấy.


Tuy nhiên, gặp thử thách trên thực tế, nhiều khi chúng ta không tự chủ được khi bị ngoại cảnh, tha nhân tác động, trở nên chấp ta, chấp người; quên nhìn về chủ hướng ban đầu từng tâm niệm dưới lá đạo kỳ. Chớ bảo nói dễ làm khó, chúng ta đã từng vượt khó để vào Đạo, vào CQ tu học, vượt được bởi đã lập chí hy sinh; hy sinh những ham muốn thường tình, hy sinh từ cái rất nhỏ để cẩn ngôn cẩn hạnh, hy sinh ý kiến tư hữu để hòa đồng, sự nhường nhịn thừa hưởng vật chất để giúp người, giúp đời; rồi nguyện hy sinh cả cái tài, cái danh, quyền chức. Thiển nghĩ người nhân viên CQ nào cũng đã từng hy sinh nhiều ít thì khi gặp thử thách lớn, mạnh dạn hy sinh hơn nữa mới bảo toàn được Tôn chỉ. Chúng ta đã chẳng từng nguyện “ Nguyện đem cả tài danh quyền chức, nguyện xem thường vật chất hồng mao. QUYẾT TÂM XÂY DỰNG PHONG TRÀO, hóa hoằng Chánh pháp xóa màu tang hương “ đó sao ?


Chúng ta nói CQ đang trải qua thử thách trầm trọng, nhưng đồng thời cũng chịu thử thách vô cùng nghiệt ngã của trận dịch Covid-19. Qua đó chúng ta hãy học bài học xương máu của lòng hy sinh cao quý chống dịch của toàn thể cộng đồng xã hội trên thế giới. Điều gì đã nhất loạt gợi lên lòng hy sinh phổ quát đó? Phải chăng là tình thương, là trách nhiệm làm người trước sự sống còn của hàng vạn người vô tội? Thế giới đang rất khâm phục những nghĩa cử cá nhân hay tập thể ấy, nhất là lấy Việt Nam làm tiêu biểu. Vậy về phía người đạo chúng ta, lòng hy sinh tự ngã của chúng ta cho Lý tưởng Đại Đạo há thua kém người đời hay sao?


Sau lúc sôi nổi ban đầu, bây giờ bình tâm nghĩ lại, sau cuộc thử thách, chúng ta sẽ được gì và mất gì? Có thể chúng ta vừa lòng với cái được vô thường mà quên cái mất hằng thường; mất rồi không thể đi đâu tìm lại được đâu ! Vì chúng ta đã tự đánh mất chúng ta! Có lần Ơn Trên dạy phải tu học hành đạo sao cho “được Trời, được Đạo, được tâm”. Những điều đó Cơ Quan đã từng được, liệu sẽ còn chăng ? Xin đừng nói “còn được cây đuốc trên tay”, coi chừng nó sắp tàn ruội rồi vì “Tâm” và “Đạo” là năng lượng không còn thì đuốc kia chỉ là ngọn đèn leo lét mà thôi !


Nghĩ như vậy không phải bi quan hay mất niềm tin, CQ vẫn đang là một tập thể được chọn. Những hàng tiền bối tiền nhiệm từng là các bậc hy sinh khai sơn phá thạch, nhiều vị đương nhiệm đã từng hiến dâng hơn nửa đời người vẫn đang tiếp tục hiến dâng. Những bậc phụ huynh nhà đạo đang truyền thừa sứ mạng tiếp nối, những gáo sĩ, tu sĩ ưu tú hiến dâng trọn đời cho Chánh Pháp Đại Đạo, những đạo hữu nhân viên đức tin kiên cố . . .Tin rằng hầu hết vẫn đang chung hủy nhứt tâm lo gì đạo nghiệp không thành.


Ôi ! biết bao lời dạy của Ơn Trên từ gần 100 năm qua trong toàn đạo, nhất là vô cùng ưu ái hơn 50 năm qua cho CQ, không lẽ nhất đán vì những giờ phút nong nỗi nào đó mà chịu gát lại như đóng tro tàn hay sao? Hãy nhớ rằng, chúng ta đang viết lịch sử cho chính mình, đừng để nhỏ lên những giọt mực làm hoen ố những trang sử Sứ mạng cứu độ Kỳ Ba.


Trở lại vấn nạn lần này, thật ra những người trong cuộc đều bị thử thách mà đáp số không phải ai thắng ai, ai hơn ai; có lẽ chỉ người tự thắng là sáng giá. Ngoài ra đừng ai phán xét ai cả, vì mình còn chưa biết mình làm sao biết người mà phán xét. Người tu phản tỉnh xét mình sẽ tự soi rọi bằng giới luật. Đức Long Hoa Giáo Chủ có dạy “ . . . kẻ phá giới là kẻ tự đoạn dứt con đường trở lại. Nhưng kẻ phạm giới mà lòng biết chút xấu hổ, cũng còn cứu được, ngại cho kẻ phạm giới mà lòng lờn lả, không hổ thẹn, không còn biết lồng lộng sáng soi, mà còn che phủ một miếng vải thưa trước cả mọi người, kẻ ấy làm sao có sự an ổn trong lòng mà không sống trong rối loạn” ( Huyền Quan Đàn, 01-01 Bính Thìn, 31- 01- 1976)


Vậy, nếu lấy “Thanh tịnh” làm tiền đề, “bình đẳng” là chủ trương, “Hòa ái” làm phương châm, mới đạt được “hợp tác”giữa cộng đồng. Đó là đường lối vượt qua thử thách thành công. Bài học “hợp tác” chống dịch vừa qua, sở dĩ thành công nhờ ở tinh thần vô tư, vô phân biệt, phá chấp, đạt đỉnh nhân văn rạng ngời.


Nhìn lại nội tình Cơ Quan, cần ý thức rằng tất cả những gì vô thường: nghe vô thường, thấy vô thường, “lên mạng” vô thường dù muốn dù không sẽ trôi qua như dòng nước dưới cầu, cái còn lại là trách nhiệm người hiến dâng trước Cơ Đạo, trước Sứ mạng Cơ Quan PTGLĐĐ. Hỡi Anh Chị Em, tuổi đời có hạn, tuổi đạo còn non, chúng ta không thể dậm chân tại chỗ chỉ vì những biến hiện vô thường làm phiền não nhất thời mà vô tâm nhục chí!


Rất ngẫu nhiên, đến đây lại nhớ đến đoạn thánh ngôn của Đức Long Hoa Giáo Chủ rất trùng hợp với tình huống mà mọi người đang trăn trở: “ Bởi quyền Đạo còn yếu nên thế quyền mới lấn lướt được, dù phải thế quyền cao rộng đến bao nhiêu cũng không làm sao triệt thối được tâm đạo con người giải thoát. Bởi kẻ còn cống cao là còn chấp mạnh, chấp chặt vào cái gì thì cái đó bị trước, bị ngăn, thì khổ não phiền còn thiêu đốt, lửa vô minh cháy cả trí khôn. Chấp danh lợi ái ân, danh lợi ái ân mất đi mà khổ, chấp pháp quyền hình tướng kinh giáo chùa am, pháp quyền hình kinh chùa am mất đi mà lòng khiếp đởm bỏ tu chối Đạo”


Sau cùng, xin nói thật tình, không dám “lên mặt dạy đời”, chỉ đem mấy phút dâng trào tâm đạo, chia sẻ tâm tư cùng anh chị em, gọi là “Thư ngõ” hầu giao cảm giữa đồng đạo đồng tâm. Mong anh chị em bỏ qua điều chi chưa được hài lòng. . .Thân ái chào anh chị em


Thiện Chí viết xong lúc 2g30 sáng ngày thứ năm 30 tháng Tư năm 2020




















Tuesday, June 18, 2019

Sự sống


SỰ SỐNG
Thiện Chí
Nhà bác học - cũng là linh mục- Teilhard de Chardin đã chứng minh rằng sự sống đánh dấu bước tiến hóa(TH) vĩ đại của vũ trụ.

Theo ông, vạn vật tiến hóa từ những cấu tử bất động đến những cấu tử "sinh động". Những cực vi trùng là mhững chứng nhân của sự xuất hiện sự sống đầu tiên. Vũ trụ đòi hỏi trái đất phải trãi qua hai ngàn triệu năm mới có sự sống sơ khai xuất hiện và hai ngàn triệu năm nữa để có những sinh vật đơn tế bào, rồi năm trăm triệu năm sau mới phát sinh các sinh vật đa tế bào tức là thực vật và động vật .

Theo Teilhard, vạn vật không chỉ hiện hữu và tiến hóa theo hai vhiều vô cùng lớn và vô cùng nhỏ, mà còn có chiều thứ ba : vô cùng phức tạp. Chính trong chiều vô cùng phức tạp này, một tiềm năng đồng thời tăng sinh cho đến mức độ biểu hiện được, để làm một bước thăng tiến huy hoàng cho sự sống. Tiềm năng đó chính là năng lượng trí năng phát triển song song với năng lượng cơ học của sự sống. Ta có thể gọi tiềm năng đó là điểm Đạo trong sự sống. Lúc sinh vật người đầu tiên xuất hiện là lúc điểm Đạo ấy hiển lộ ra thành ý thức.
Do đó , trên đường TH của vũ trụ vạn vật, nếu sự xuất hiện mầm sống đầu tiên là một điều kỳ diệu, thì sự xuất hiện loài người là điều kỳ diệu thứ hai. Ông gọi khởi điểm xuất hiện sự sống là "điểm sinh hóa" (point de vitalisation), và khởi điểm của sự xuất hiện loài người là "điểm nhân hóa" (point d’homonisation).
Các biểu hiện của sự sống
Theo kết quả nghiên cứu của nhiều nhà sinh học, sự sống được đánh giá bằng các tiêu chí dưới đây:
1.    Trao đổi chất: toàn bộ các hoạt động hóa học của cơ thể sinh vật.
2.    Sự nội cân bằng: xu hướng các sinh vật tự duy trì môi trường bên trong ổn định: các tế bào hoạt động ở mức cân bằng và ổn định ở một trạng thái nhất định.
3.    Sự tăng trưởng: tăng khối lượng chất sống của mỗi cơ thể sinh vật.
4.    Đơn vị tổ chức: cấu trúc được bao gồm một hoặc nhiều tế bào - đơn vị cơ bản của cuộc sống.
5.    Sự đáp lại: đáp lai các kích thích khác nhau từ môi trường bên ngoài.
6.    Sự sinh sản: gồm sinh sản hữu tính và sinh sản vô tính
7.    Sự thích nghi: khả năng cơ thể có thể sống bình thường trong một môi trường nhất định.
Các giả thuyết hay các phát hiện về sự xuất hiện của sự sống là như thế, dù giới khoa học gia ngày nay vẫn còn bàn cải, chúng ta cũng gặp được đâu đó trong giáo lý các tôn giáo quan điểm về “sự sống”.
_Trước hết, câu Thánh kinh Ki Tô giáo: “ Ta là đường đi, là lẽ thật và sự sống
 "Tôi sống nhưng không phải tôi, nhưng là Chúa Kitô sống trong tôi". (Thánh Phao lồ):
(Galata 2,20 Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi. Hiện nay tôi sống trong xác phàm, là sống trong niềm tin vào Con Thiên Chúa, Đấng đã yêu mến tôi và hiến mạng vì tôi.)

_Giáo ;ý Cao Đài : Sự Thương Yêu
 ( lời dạy của Đức Chí Tôn Ngọc Hoàng Thượng Đế )
Sự thương yêu là giềng bảo sanh của Càn khôn Thế giới. Có thương yêu, nhơn loại mới hòa bình, Càn khôn mới an tịnh. Ðặng an tịnh mới không thù nghịch lẫn nhau, mới giữ bền cơ sanh hóa
. . .Thầy là Cha của sự sống. Vì vậy mà lòng háo sanh của Thầy không cùng tận. Cái sống của cả chúng sanh, Thầy phân phát khắp Càn khôn Thế giới, chẳng khác nào như một nhành hoa trong cội, nó phải đủ ngày giờ Thầy nhứt định mới trổ bông và sanh trái đặng trồng nữa, biến hóa ra thêm. Nếu như ai bẻ hoa ấy nửa chừng thì là sát một kiếp sanh không cho biến hóa. (Thánh Ngôn Hiệp Tuyển, Q1,1928,TT. Cao Đài Tây Ninh)
_ Đức Diêu Trí Kim Mẫu:
“ Đạo là như vậy đó con ôi !
Đạo ở lòng son ở đất trời,
Từng nhịp hơi đưa, từng nhịp sống;
Chan hòa vũ trụ chẳng riêng nơi.”
                    x x x
Cõi hậu thiên, thân sanh vào đó,
Điểm tiên thiên sẵn có nơi thân;
mầm sống là nguyên thần,
Là Trời, là Đạo, là Nhân của Người.”[1]

Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo: “ Quyền Pháp là tình thương và sự sống
Phụ chú bài Tượng truyện Quẻ Kiền : “ Quyền là tình thương, pháp là sự sống. Nếu tình thương không đủ cảm hóa, thì quyền ấy hóa ra quyền lực thế gian thì sẽ càng làm cho nhơn sanh dưới quyền bị sự đau khổ, gây nên tai hại. Nếu sự sống không chảy đến cho các nẻo mát mẻ ở lòng người thì tâm linh bị khô héo, mà pháp trở thành yêu thuật bàng môn [ . . .] (Dịch Kinh Huyền Nghĩa, Minh Lý Đạo)
Đức Trần Hưng Đạo : . . “.Nếu con người nhận thức được bản thể tự tính của con người thì các thay đổi của ngoại cảnh không bao giờ chi phối được con người vào chỗ trầm luân sa đọa. Nếu con người không nhìn rõ lại tự tính hằng hữu Thượng Đế giáng trung, để hoàn cảnh ngoại vật chi phối, thì dầu ở được trong khung cảnh tự tôn, hay trong vòng giới luật, cũng chịu phủ mờ sau lớp vô minh để lung lạc tinh thần, phân phân bất nhứt.” (Minh Lý Thanh hội, 07-4 Tân hơi ,01-5-1971)
Qua các lý thuyết khoa học và giáo thuyết tôn giáo nêu trên, cho thấy “sự sống”, dưới góc độ biểu hiện của sinh vật,  có nguồn gốc và sự phát triển của một chuổi chuyển hóa sinh học; trong khi từ góc nhìn siêu hình học, sự sống phát sinh từ điểm đạo tiềm ẩn với tiềm năng sinh hóa rất kỳ diệu mà thánh giáo gọi là “Nguyên thần, là Trời là Đạo, là Nhân của Người”

 Ảnh: Thiện Chí (Nguồn sống thiên nhiên, 2019)



[1] Đức Diêu Trì kim Mẫu, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý, Tuất thời 13 tháng 8 Kỷ Mùi (3-10-1979)

Thursday, October 12, 2017

Vương đạo và Bá đạo


Vương Đạo và Bá Đạo - Kim Định
·         Trị Nước theo Người xưa

Nói vắn tắt thì Vương đạo dùng đức trị, còn Bá đạo dùng lực trị "dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương" (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). Chúng ta cần xác định lập trường 2 chủ trương đó theo 5 nguyên tắc sau đây:

(i) Cử hiền: Chọn hiền tài tham chính qua Khoa cử.
(ii) Giáo chi: Khuếch trương một nền Giáo dục đại chúng.
(iii) Phú chi: Làm cho Dân giàu lên...(Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân).
(iv) Lễ trị: Lấy Lễ mà trị, giảm nhẹ Hình (luật),
(v) Thành Tín: Lấy Dân làm trọng...(Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh).

Đó là 5 điểm căn bản. Hai điểm lớn nhất là Cử Hiền và Tín (ý dân), ba điểm kia là Giáo, Phú, Lễ là những điều kiện thiết yếu làm nền móng cho hai khoản trên. Đem 5 nguyên lý đó làm tiêu chuẩn để nhận định bản chất một chính thể, chúng ta có thể biết là Dân chủ hay Độc tài. Còn nhãn hiệu bên ngoài là của nhà Chu hay gọi là Quân chủ hay Cộng hòa...gì gì nữa cũng chỉ là ý hướng muốn mưu hạnh phúc cho dân…. Chúng ta không nên chỉ trích là nệ cổ khi những điều đó đã được thi hành ở đời Nghiêu Thuấn hay nhà Chu. Người học Triết phải biết vượt qua ngôn từ để nhận ra thực chất mới là đứng trong cương vị Triết, đừng để mình bị trói buộc trong ngôn từ: "từ đạt nhi dĩ hỹ,
" (Luận Ngữ XV 40). Lời chẳng qua để diễn tả mà thôi: "res et non verba", quan trọng là nội dung chứ không phải lời nói.

Nguyên tắc thứ nhất: Cử hiền tài
Trước câu hỏi quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc?
Vương đạo chủ trương thuộc người hiền đức: cắt đặt người hiền tài có năng lực (cử hiền dữ năng,
). Mặc Tử viết: "thượng hiền sự năng vi chính" tôn trọng người có đức, dùng người có tài năng làm chính sách (chương Thượng hiền).
Kinh Thi, thiên Đại Nhã: thiên mệnh không phải thường tồn; có đức thì còn, thất đức thì hết, vì quyền bính thuộc người hiền đức chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới nhiều hình thức. Mạnh Tử nói "lập hiền vô phương" (IVb.20) cất đặt người hiền thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết "tam đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân,
", ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất thiên hạ vì không có đức nhân: nhà Hạ lên với Vũ có nhân mất với Kiệt bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với Thành Thang có nhân mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức mất thiên hạ với U, Lệ bất nhân (Mạnh VII 3).
Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú trọng tài đức mà không kể đến dòng tộc. Ông thường khen Tử Lộ dầu mặc áo thường cũng không ngại đứng vào hàng đại thần (L.N. IX 25). Và hy vọng lớn nhất của ông đặt vào một người bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức Nhan Hồi.
Cũng trong dòng tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức quan đại thần. Dưới con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp chính của ông Chu Công. Trong L.N XIV. 20 hỏi tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả lời là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng Thúc Ngữ giữ ngoại giao. Chúc Đà giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước còn. Đó là chủ trương "quan cai trị, vua kiểm soát" tức sự quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với Đạo chứ không trung với cá nhân vua "dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ,
, " (L.N. XI. 23). Chủ trương đó sau này Mạnh Tử với ý lớn: "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, " hoặc câu của Tuân Tử "tru bạo quốc chi quân nhược tru độc phu, " (Tuân Tử chính luận), giết ông vua tàn bạo một nước cũng như giết một kẻ độc phu (chứ chẳng thần thánh gì). Thật là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng của bao người Tây phương coi việc giết vua Louis XVI (Pháp) như một tội phạm sự thánh. Chung quy đó là hậu quả của thuyết Kế hiền.

Nguyên tắc thứ hai: Giáo chi
Chủ trương cử hiền tài như trên thật đáng là tinh thần Dân chủ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học, cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quý để mở rộng ra trong dân chúng không phân quý tiện: "hữu giáo vô loài,
" (Luận Ngữ, XV 38), trong việc giáo hóa không có phân biệt giai cấp quý tiện sang hèn.
Với chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường, nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc Cách mạng tận nền. Điều đó dễ hiểu khi ta nhận xét bên các nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà mãi tới năm 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn dân, còn trước kia dành riêng cho quý tộc (C.C. 152). Như thế ta thấy việc của Khổng thật là táo bạo sớm sủa và là một cú chí tử đánh vào thể chế "quyền quý thế tập": dưới con mắt họ việc nhận người nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy cách cai trị là một việc phá rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng, số người chống đối vì thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí là dạy đời không biết mỏi mệt (hối nhân bất quyện) nên mới gây ra nhiều phản đối ở phía Pháp gia chủ trương giữ độc quyền giáo dục cho "quyền quý thế tập".

Nguyên tắc thứ ba: Phú chi
Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng đói thì hết có thể nói đến học với hành, có hô hào cũng vô ích. Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu làm sao dân giàu "dân khả sử phú dã" (Mạnh Tử VII. 23)
Không có sách nào trong triết học tha thiết về vấn đề làm giàu dân bằng. Nên trước khi nói "giáo chi" Khổng Tử đặt "phú chi", phải làm giàu dân: bá tánh bất túc quân thục dữ túc,
(L.N.XII.9.) Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai.
Chính Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quý phi nghĩa như phù vân,
(L.N. VII 15). Muốn hiểu câu này, nên chú trọng thời đó chưa có kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm giàu nào mau chóng hơn là làm quan để bóc lột dân chúng. Chính vì tình trạng đó mà có câu "vi nhân bất phú, vi phú bất nhân, , " (Mạnh Tử III, 3). Vì thế Khổng nói: "nước vô đạo mà giàu có phú quý là điều đáng sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà để mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ" (L.N. VIII 14).
Điều lo âu của ông vẫn là "bất hoạn quả nhi hoạn bất quân,
" (L.N. XVI. 1),không lo không có của, mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chạy xô vào tay mấy người có quyền thế (Việt Nam A và Việt Nam B).
Nguyên tắc quân phân tài sản đó sau này được Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ trương "minh quân chế dân chi sản,
" (I. 6), bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh 1, 12, 36, 38) và làm cho dân giàu thì nước mạnh.. Và nhân đấy ông đề cao phép tỉnh điển cũng như Nho giáo chống đối việc bán đất mà sau này đời nhà Tần Thương Ưởng đã cho phép (Zenker 193, C.A Maspéro 314). Cho bán đất tức coi đất là của riêng (thiên hạ vi gia) vì nếu coi là của công thì phải để chung rồi cứ thời hạn mà phân phát. "Quân cấp" đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng không được giữ quá 10 mẫu đời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân phân này. Gọi là công điền hay là đất của vua chỉ khác danh từ gọi mà thôi. Nhiều người tỏ ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm của tư kẻo mất quân bình. Mà không thấy rằng từ khi bãi bỏ thể chế đó, cho phép mua bán đất (đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực làm cớ cho những cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ còn lối 5% (xem chẳng hạn Histoire de la Chine de Réné Grousset: 77,114, 208 và 353).
Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ trương Vương đạo. Tuyên bố mọi đất của vua tức là một lối thi hành câu "thiên hạ vi công", nhờ đó "người 50 tuổi có lụa mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn" (Mạnh Tử VII. 22). Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu hiệu "đất đai thuộc người cày cấy"… tuy khác thể chế mà tinh thần đều là "hoạn bất quân" của người xưa vậy. Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.

Nguyên tắc thứ bốn: Lễ trị
Con người hễ đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình "giao chi, phú chi", ông chủ trương lễ trị. "Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đao chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách,
, , ; , , . ", "dùng chính trị hình luật mà cai trị thì dân mới chỉ có biết tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc mà cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách".
Việc lễ trị tuy phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái quyền quý, còn thường dân thì trị bằng luật (Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu,
, ) (Couvreur 153). Tuy câu này có trong Lễ ký, nhưng chắc do pháp gia đưa vào, vì nó trái ngược với chủ trương không phân biệt quý tiện của Khổng Tử. "Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại, " (L.N. XX 20), người quân tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ; như không phân biệt Kinh Thượng, ở đâu cũng phải cư xử cung kính, trung tín. "Cư xử cung, chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chi Di Địch, bất khả khí dã, , , , , " (L.N XIII 19), cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải kính tôn. Đối với tha nhân phải trung tín. Dầu có sang miền Di, Địch (mường rợ) cũng không thể bỏ được những nguyên tắc đó. (Không được phân biệt Kinh với Thượng trong lối cư xử. Ở đâu cũng là người cả.)
Trước kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng tới toàn dân. Đó là việc làm của Thương Ưởng nhưng người cổ động đầu tiên là Khổng Tử (C.A Maspéro p.95). Và lễ gia tiên, ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới toàn dân không phân biệt sang hèn (R.Grousser, Histoire de la Chine p.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử phân biệt quý tiện, mà chính ông là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng lễ.

Nguyên tắc thứ năm: Thành Tín
Lễ trị là một lối cai trị tôn trọng người dân, coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần. "Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình,
, XIII". Nếu người trên thành tín thì không ai không hết tình. Đã tín thì phải coi ý dân làm trọng. Bên phía pháp trị chỉ coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến lòng dân. Bên lễ trị thì chủ trương lấy tín làm đầu. "Kính ư dân hưng, kính ư thần vong, , " (Tả truyện). Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu kính quỷ thần thì sẽ bị diệt vong và "đắc thiên hạ hữu đạo: đắc kỳ dân tư đắc thiên hạ hỹ, : , " (Mạnh Tử IV.9), có một đường lối để được thiên hạ, đó là được lòng dân và "đắc hồ khâu dân nhi vi thiên tử, " (Mạnh Tử VIIb. 14), được lòng dân ở đồng bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong sách). Trong ba vấn đề "túc thực, túc binh, dân tín nhi dĩ hỉ" thì ông cho tín là quan trọng hơn cả bởi vì "dân vô tín bất lập, " (L.N XII.7). Dân không tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi. Do đó chủ trương "hữu nhơn tắc hữu địa", có dân tự nhiên có đất (ĐH. 10) để trả lời vào mặt mấy ông cai trị chuyên lo mở rộng đất đai, tích chứa giàu sang mà không chú ý được lòng dân.
Ông còn ghét nói đến chiến tranh binh lực. "Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã,
" (L.N XIV. 35), con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức nhưng vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực ra rộng rãi "người thiện chiến thì tội chém chưa đủ đền" (nhất tướng công thành vạn cốt khô) và nhân đó gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu không khí "trọng văn khinh võ", khác hẳn ở xã hội chẳng hạn của Platon luôn luôn nói đến chiến tranh binh lực."
(Thân hữu có thể đọc đầy đủ trong Kim Định: Nho Giáo Nguyên Thủy)