Thursday, October 12, 2017

Vương đạo và Bá đạo


Vương Đạo và Bá Đạo - Kim Định
·         Trị Nước theo Người xưa

Nói vắn tắt thì Vương đạo dùng đức trị, còn Bá đạo dùng lực trị "dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương" (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). Chúng ta cần xác định lập trường 2 chủ trương đó theo 5 nguyên tắc sau đây:

(i) Cử hiền: Chọn hiền tài tham chính qua Khoa cử.
(ii) Giáo chi: Khuếch trương một nền Giáo dục đại chúng.
(iii) Phú chi: Làm cho Dân giàu lên...(Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân).
(iv) Lễ trị: Lấy Lễ mà trị, giảm nhẹ Hình (luật),
(v) Thành Tín: Lấy Dân làm trọng...(Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh).

Đó là 5 điểm căn bản. Hai điểm lớn nhất là Cử Hiền và Tín (ý dân), ba điểm kia là Giáo, Phú, Lễ là những điều kiện thiết yếu làm nền móng cho hai khoản trên. Đem 5 nguyên lý đó làm tiêu chuẩn để nhận định bản chất một chính thể, chúng ta có thể biết là Dân chủ hay Độc tài. Còn nhãn hiệu bên ngoài là của nhà Chu hay gọi là Quân chủ hay Cộng hòa...gì gì nữa cũng chỉ là ý hướng muốn mưu hạnh phúc cho dân…. Chúng ta không nên chỉ trích là nệ cổ khi những điều đó đã được thi hành ở đời Nghiêu Thuấn hay nhà Chu. Người học Triết phải biết vượt qua ngôn từ để nhận ra thực chất mới là đứng trong cương vị Triết, đừng để mình bị trói buộc trong ngôn từ: "từ đạt nhi dĩ hỹ,
" (Luận Ngữ XV 40). Lời chẳng qua để diễn tả mà thôi: "res et non verba", quan trọng là nội dung chứ không phải lời nói.

Nguyên tắc thứ nhất: Cử hiền tài
Trước câu hỏi quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc?
Vương đạo chủ trương thuộc người hiền đức: cắt đặt người hiền tài có năng lực (cử hiền dữ năng,
). Mặc Tử viết: "thượng hiền sự năng vi chính" tôn trọng người có đức, dùng người có tài năng làm chính sách (chương Thượng hiền).
Kinh Thi, thiên Đại Nhã: thiên mệnh không phải thường tồn; có đức thì còn, thất đức thì hết, vì quyền bính thuộc người hiền đức chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới nhiều hình thức. Mạnh Tử nói "lập hiền vô phương" (IVb.20) cất đặt người hiền thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết "tam đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân,
", ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất thiên hạ vì không có đức nhân: nhà Hạ lên với Vũ có nhân mất với Kiệt bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với Thành Thang có nhân mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức mất thiên hạ với U, Lệ bất nhân (Mạnh VII 3).
Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú trọng tài đức mà không kể đến dòng tộc. Ông thường khen Tử Lộ dầu mặc áo thường cũng không ngại đứng vào hàng đại thần (L.N. IX 25). Và hy vọng lớn nhất của ông đặt vào một người bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức Nhan Hồi.
Cũng trong dòng tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức quan đại thần. Dưới con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp chính của ông Chu Công. Trong L.N XIV. 20 hỏi tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả lời là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng Thúc Ngữ giữ ngoại giao. Chúc Đà giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước còn. Đó là chủ trương "quan cai trị, vua kiểm soát" tức sự quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với Đạo chứ không trung với cá nhân vua "dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ,
, " (L.N. XI. 23). Chủ trương đó sau này Mạnh Tử với ý lớn: "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, " hoặc câu của Tuân Tử "tru bạo quốc chi quân nhược tru độc phu, " (Tuân Tử chính luận), giết ông vua tàn bạo một nước cũng như giết một kẻ độc phu (chứ chẳng thần thánh gì). Thật là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng của bao người Tây phương coi việc giết vua Louis XVI (Pháp) như một tội phạm sự thánh. Chung quy đó là hậu quả của thuyết Kế hiền.

Nguyên tắc thứ hai: Giáo chi
Chủ trương cử hiền tài như trên thật đáng là tinh thần Dân chủ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học, cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quý để mở rộng ra trong dân chúng không phân quý tiện: "hữu giáo vô loài,
" (Luận Ngữ, XV 38), trong việc giáo hóa không có phân biệt giai cấp quý tiện sang hèn.
Với chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường, nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc Cách mạng tận nền. Điều đó dễ hiểu khi ta nhận xét bên các nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà mãi tới năm 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn dân, còn trước kia dành riêng cho quý tộc (C.C. 152). Như thế ta thấy việc của Khổng thật là táo bạo sớm sủa và là một cú chí tử đánh vào thể chế "quyền quý thế tập": dưới con mắt họ việc nhận người nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy cách cai trị là một việc phá rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng, số người chống đối vì thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí là dạy đời không biết mỏi mệt (hối nhân bất quyện) nên mới gây ra nhiều phản đối ở phía Pháp gia chủ trương giữ độc quyền giáo dục cho "quyền quý thế tập".

Nguyên tắc thứ ba: Phú chi
Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng đói thì hết có thể nói đến học với hành, có hô hào cũng vô ích. Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu làm sao dân giàu "dân khả sử phú dã" (Mạnh Tử VII. 23)
Không có sách nào trong triết học tha thiết về vấn đề làm giàu dân bằng. Nên trước khi nói "giáo chi" Khổng Tử đặt "phú chi", phải làm giàu dân: bá tánh bất túc quân thục dữ túc,
(L.N.XII.9.) Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai.
Chính Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quý phi nghĩa như phù vân,
(L.N. VII 15). Muốn hiểu câu này, nên chú trọng thời đó chưa có kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm giàu nào mau chóng hơn là làm quan để bóc lột dân chúng. Chính vì tình trạng đó mà có câu "vi nhân bất phú, vi phú bất nhân, , " (Mạnh Tử III, 3). Vì thế Khổng nói: "nước vô đạo mà giàu có phú quý là điều đáng sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà để mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ" (L.N. VIII 14).
Điều lo âu của ông vẫn là "bất hoạn quả nhi hoạn bất quân,
" (L.N. XVI. 1),không lo không có của, mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chạy xô vào tay mấy người có quyền thế (Việt Nam A và Việt Nam B).
Nguyên tắc quân phân tài sản đó sau này được Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ trương "minh quân chế dân chi sản,
" (I. 6), bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh 1, 12, 36, 38) và làm cho dân giàu thì nước mạnh.. Và nhân đấy ông đề cao phép tỉnh điển cũng như Nho giáo chống đối việc bán đất mà sau này đời nhà Tần Thương Ưởng đã cho phép (Zenker 193, C.A Maspéro 314). Cho bán đất tức coi đất là của riêng (thiên hạ vi gia) vì nếu coi là của công thì phải để chung rồi cứ thời hạn mà phân phát. "Quân cấp" đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng không được giữ quá 10 mẫu đời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân phân này. Gọi là công điền hay là đất của vua chỉ khác danh từ gọi mà thôi. Nhiều người tỏ ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm của tư kẻo mất quân bình. Mà không thấy rằng từ khi bãi bỏ thể chế đó, cho phép mua bán đất (đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực làm cớ cho những cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ còn lối 5% (xem chẳng hạn Histoire de la Chine de Réné Grousset: 77,114, 208 và 353).
Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ trương Vương đạo. Tuyên bố mọi đất của vua tức là một lối thi hành câu "thiên hạ vi công", nhờ đó "người 50 tuổi có lụa mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn" (Mạnh Tử VII. 22). Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu hiệu "đất đai thuộc người cày cấy"… tuy khác thể chế mà tinh thần đều là "hoạn bất quân" của người xưa vậy. Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.

Nguyên tắc thứ bốn: Lễ trị
Con người hễ đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình "giao chi, phú chi", ông chủ trương lễ trị. "Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đao chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách,
, , ; , , . ", "dùng chính trị hình luật mà cai trị thì dân mới chỉ có biết tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc mà cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách".
Việc lễ trị tuy phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái quyền quý, còn thường dân thì trị bằng luật (Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu,
, ) (Couvreur 153). Tuy câu này có trong Lễ ký, nhưng chắc do pháp gia đưa vào, vì nó trái ngược với chủ trương không phân biệt quý tiện của Khổng Tử. "Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại, " (L.N. XX 20), người quân tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ; như không phân biệt Kinh Thượng, ở đâu cũng phải cư xử cung kính, trung tín. "Cư xử cung, chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chi Di Địch, bất khả khí dã, , , , , " (L.N XIII 19), cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải kính tôn. Đối với tha nhân phải trung tín. Dầu có sang miền Di, Địch (mường rợ) cũng không thể bỏ được những nguyên tắc đó. (Không được phân biệt Kinh với Thượng trong lối cư xử. Ở đâu cũng là người cả.)
Trước kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng tới toàn dân. Đó là việc làm của Thương Ưởng nhưng người cổ động đầu tiên là Khổng Tử (C.A Maspéro p.95). Và lễ gia tiên, ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới toàn dân không phân biệt sang hèn (R.Grousser, Histoire de la Chine p.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử phân biệt quý tiện, mà chính ông là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng lễ.

Nguyên tắc thứ năm: Thành Tín
Lễ trị là một lối cai trị tôn trọng người dân, coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần. "Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình,
, XIII". Nếu người trên thành tín thì không ai không hết tình. Đã tín thì phải coi ý dân làm trọng. Bên phía pháp trị chỉ coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến lòng dân. Bên lễ trị thì chủ trương lấy tín làm đầu. "Kính ư dân hưng, kính ư thần vong, , " (Tả truyện). Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu kính quỷ thần thì sẽ bị diệt vong và "đắc thiên hạ hữu đạo: đắc kỳ dân tư đắc thiên hạ hỹ, : , " (Mạnh Tử IV.9), có một đường lối để được thiên hạ, đó là được lòng dân và "đắc hồ khâu dân nhi vi thiên tử, " (Mạnh Tử VIIb. 14), được lòng dân ở đồng bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong sách). Trong ba vấn đề "túc thực, túc binh, dân tín nhi dĩ hỉ" thì ông cho tín là quan trọng hơn cả bởi vì "dân vô tín bất lập, " (L.N XII.7). Dân không tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi. Do đó chủ trương "hữu nhơn tắc hữu địa", có dân tự nhiên có đất (ĐH. 10) để trả lời vào mặt mấy ông cai trị chuyên lo mở rộng đất đai, tích chứa giàu sang mà không chú ý được lòng dân.
Ông còn ghét nói đến chiến tranh binh lực. "Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã,
" (L.N XIV. 35), con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức nhưng vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực ra rộng rãi "người thiện chiến thì tội chém chưa đủ đền" (nhất tướng công thành vạn cốt khô) và nhân đó gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu không khí "trọng văn khinh võ", khác hẳn ở xã hội chẳng hạn của Platon luôn luôn nói đến chiến tranh binh lực."
(Thân hữu có thể đọc đầy đủ trong Kim Định: Nho Giáo Nguyên Thủy)


Wednesday, October 04, 2017


ĐỐI CHIẾU TÍN ĐIỀU VỀ ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU và ĐỨC MẸ MARIA VÔ NHIỂM

Dẫn nhập : Tiếp cận hai tôn giáo Thiên Chúa giáo (Công giáo) và Cao Đài giáo, người ta nhận thấy, đặc biệt, hai tôn giáo này có Tín điều về “ Đức Mẹ”. Giới tín đồ và các nhà nghiên cứu từng nêu câu hỏi, nội dung của hai Tín điều này tương đồng – dị biệt như thế nào? Muốn giải đáp, chúng ta lần lượt tìm hiểu giáo thuyết của hai tôn giáo đó.
Đối với Cao Đài giáo, Chủ thể “Đức Mẹ” được chính thức diễn giải trong các bài kinh Phật Mẫu Chơn Kinh và Kinh tán Tụng Công Đức Diêu Trì Kim Mẫu.
Đối với Thiên Chúa giáo, cố Đức Giáo hoàng PIO XII cũng đã chính thức công bố Tín điều về Đức Mẹ Maria vào năm 1950. Nhiều tài liệu giáo lý do các hàng Giáo phẩm, các hội đoàn tín đồ Thiên chúa giáo xưng tụng, ca ngợi công đức Đức Mẹ Maria. Trong bài viết này, xin đơn cử bài “ Mẹ Maria là ưu phẩm của Thiên Chúa” (https://giaophanphucuong.org/suy-niem-hang-ngay/suy-niem-le-duc-me-hon-xac-len-troi---me-maria-la-uu-pham-cua-thien-chua-2255.html)
KINH PHẬT MẪU (Trích đoạn)

Do Đức Bát Nương giáng cơ tại Thánh Thất Kim Biên (Cambodge), ngài Hộ Pháp Phạm Công Tắc thủ cơ. Ngài chú giải bài kinh này vào Trung Thu năm Đinh Hợi (1947)
'Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.'
+Từng Trời thứ chín gọi cung Tạo Hóa Thiên, có vị cầm quyền năng tạo đoan gọi là Thiên Hậu, nắm cả Kim Bàn tức là nắm đẳng cấp Thiêng Liêng điều khiển chơn linh gọi là Phật Mẫu Diêu Trì. Bên Á Ðông người ta thường kêu Phật Mẫu là Mẹ Sanh thờ bằng cốt tượng, cũng nhờ nơi Cửu Vị Tiên Nương truyền bá còn lưu lại ngày nay là bọn đồng cốt, nhờ đồng cốt mà cả Á Ðông đều biết Phật Mẫu là Mẹ sanh của nhơn loại.' 
 'Sanh quang dưỡng dục quần nhi'
+ Lấy khí sanh quang, nuôi nấng con cái của Người tức là vạn linh.
 'Chơn linh phối nhứt thân vi thánh hình'
+ Chơn linh của Chí Tôn cho ta hiệp với thi hài là thành thân hình, ta gọi là phách hay vía, khi thoát xác chơn linh ấy xuất ngoại.
 'Thiên cung xuất vạn linh tùng pháp'
+ Do nơi Thiên Cung mà ra vạn loại, tức nhiên vạn vật tùng quyền pháp thiên cung mà sanh.
 'Hiệp âm dương hữu hạp biến sanh' + Lấy âm dương khí hòa hiệp nhau biến hóa ra vạn vật.
 'Càn khôn sản xuất hữu hình'
+ Càn khôn trước là không không, Phật Mẫu biến ra cả vạn linh.
 'Bát hồn vận chuyển hóa thành chúng sanh'
+ Trong bát hồn kể : vật chất hồn, thảo mộc hồn, thú cầm hồn, nhơn hồn, Thần hồn, Thánh hồn, Tiên hồn, Phật hồn do trong Kim Bàn của Phật Mẫu mà ra. Bát đẳng cấp thiêng liêng chơn hồn vận chuyển biến thành vật chất, thảo mộc, cầm thú và nhơn loại gọi là chúng sanh.


 Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu" (*)
[Trích đoạn]
                                    Kể từ hỗn độn sơ khai,
                        Chí Tôn hạ chỉ trước đài Linh Tiêu.
                                Lưỡng nghi phân khí hư vô,
                        Diêu Trì Kim Mẫu nung lò hóa sanh.
                                Âm Dương biến tạo Chơn thần.
                        Lo cho nhơn vật về phần hữu vi.
                                Mớm cơm vú sữa cũng tay,
                        Dưỡng sanh đùm bọc với tài chí công.
                                Xét vì nhơn vật lẽ đồng,
                        Chắt chiu hằng để trọn lòng chung thương.
                                Chí mong hòa hảo âm dương
                        Thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn.
                                Mẫu Nghi hằng giữ lòng đơn,
                        Mảng lo cho trẻ đặng toàn mảnh thân.
                                Riêng thương Kim Mẫu khóc thầm,
                        Biển trần thấy trẻ lạc lầm bấy lâu.
                                Đòi phen Mẹ luống ưu sầu,
                        Cũng vì tà mị dẫn đường con thương
                        ………………………………………………        


Suy ngẫm : Bài kinh dạy rằng, Đức DTKM vận dụng hai nguồn năng lực Âm Dương trong Bản Thể Hư Vô biến ra Chơn thần để hóa sanh, đồng thời dưỡng sanh nhơn vật. Hơn nữa, với tình thương chúng sanh vô biên, Đức Mẹ còn cứu độ con cái khỏi bị tà mị mê hoặc vào đường tội lỗi, không tiến hóa trờ về nguồn cội thiêng liêng được.
Như thế, CÓ 3 chức năng thiêng liêng của Đức DTKM là:
_Hóa sanh
_Dưỡng sanh
_Cứu độ
Về Đạo học hay Thần học, Đức DTKM thuộc ngôi Vô Cực trong hệ phạm trù Vô Cực – Thái Cực – Âm Dương, nên Vô ngã, thuộc về Bản thể vô hình.
Bài kinh cũng cho thấy công năng của Đức DTKM phát sinh từ các Nguyên lý:
1.      Bản thể nguyên sơ của càn khôn vũ trụ : “Khí Hư vô”
2.      Van vật nhất thể : “ nhơn vật lẽ đồng”
3.      Luật tiến hóa: “ thuận căn theo lối bước đường vẹn chơn”

(*)Kinh "Tán Tụng Công Ðức Diêu Trì Kim Mẫu" do Ngài Bảo Văn Pháp Quân Cao quỳnh Diêu đặt ra, viết xong tại Thảo Xá Hiền Cung ngày 18-5-NhâmThân (dl 21-6-1932), theo sự chỉ định của Ðức Phạm Hộ Pháp, có dâng lên Bát Nương giáng cơ chỉnh văn lại.

________________

Thánh giáo Đức DIÊU TRÌ KIM MẪU

Phò loan:
Thượng Sanh, Hiến Pháp
Hầu đàn Bảo Thế, Hiến Thế, Khai Đạo
Chư Chức Sắc Hiệp Thiên
Cữu Trùng và Phước Thiện Nam, Nữ.
_______
Diêu Thượng Huyền Linh ngự Cữu Thiên
     Trì danh thọ sắc phổ chơn truyền.
        Phật tâm độ chúng tiêu oan trái,
                  Mẫu hóa quần sinh định nghiệp duyên.

*  *  *

Diêu Trì Bửu Điện Thánh Thất Bình Hòa (Gia Định)

Tuất thời, 14-8 Nhâm Tý (21-9-1972)
Đại lễ Trung thu Nhâm Tý vía Đức Diêu Trì Kim Mẫu
(Bộ phận HTĐ. CQPTGL)
TIẾP ĐIỂN Mẹ linh hồn các con! Mẹ mừng các con lớn nhỏ.
THI
VÔ vi chi khí dựng càn khôn,
            CỰC điểm nguyên sanh đạo bảo tồn,
   TỪ Mẫu khuyên con tu phục vị,
     TÔN danh chủ thể giữ chơn hồn.
                                                                                           

 ______________

ĐỨC MẸ MARIA


            Trước tiên, chúng ta tìm hiểu về Giáo Huấn của Giáo Hội qua biến cố Đức Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Lễ Đức Mẹ lên trời là lễ trọng và cũng là lễ cổ xưa nhất trong các ngày lễ kính Đức Mẹ được cử hành trong Giáo Hội hiện nay.Vào thời điểm đầu, lễ này được gọi là lễ Đức Mẹ an giấc. Nhưng đến năm 1950, Đức Cố Giáo Hoàng Piô XII đã đổi tên thành lễ Đức Mẹ lên trời qua Tông hiến Munificentissimus Deus.  Với tín điều này, Giáo Hội tin nhận: “Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus). Từ lời tuyên bố long trọng hôm ấy, đã trở thành chân lý đức tin cho toàn thể Giáo Hội hôm nay.
Với lời tuyên tín trên, Đức Giáo Hoàng đã liệt kê bốn chân lý tuyệt đối thuộc về lòng tin nơi Đức Maria. Bốn chân lý đó là: 1) Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa; 2) Đức Maria Vô Nhiễm Nguyên Tội; 3) Đức Maria Đồng Trinh Trọn Đời; 4) Đức Maria Hồn Xác Lên Trời.

Khi tuyên bố cùng lúc những đặc ân đó của Đức Mẹ, Giáo Hội muốn cho các tín hữu hiểu được cách tổng quát những ân huệ cao cả của Đức Maria, và đây cũng là dịp để xác tín hơn nữa những nguyên lý liên quan đến việc Mẹ được đưa lên trời cả hồn lẫn xác.
Nguyên lý thứ nhất: Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.
Việc được Thiên Chúa cất nhắc cả hồn xác Mẹ về trời là điều không có gì khó hiểu, bởi lẽ cả cuộc đời của Mẹ đã hiệp thông cách chặt chẽ vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa qua Đức Giêsu. Nên khi Đức Giêsu về trời, Ngài không thể để lại để thân xác của người mẹ yêu dấu phải hư nát trong mồ được.
Nguyên lý thứ hai: vì Thiên Chúa đã gìn giữ Mẹ khỏi mọi vết nhơ tội lỗi cách nhiệm mầu, nên khi mang thai và sinh hạ Đấng Cứu Thế quyền năng, Mẹ vẫn đồng trinh trước, trong và sau khi sinh. Vì thế, việc đưa cả hồn lẫn xác Mẹ về trời là điều cần thiết để bảo tồn vẻ trinh nguyên nơi Mẹ.
Nguyên lý thứ ba: nếu trước kia, Nguyên Tổ loài người đã bất tuân, chống lại Thiên Chúa và đi vào cõi chết, thì khi Đức Maria xuất hiện với lời “Xin vâng” tuyệt đối, Mẹ đã trở thành Evà mới liên kết mật thiết với Đức Giêsu – Ađam mới, Đấng là nguồn cội của sự sống, đã từ cõi chết sống lại và lên trời hiển vinh, thì không có lẽ gì Mẹ lại phải chịu cảnh hư nát, bởi vì hư nát là kết quả của tội lỗi. Như vậy, Mẹ đương nhiên và rất hợp lý để được đưa lên trời cả hồn lẫn xác (x. GLHTCG số 963- 975).
Tóm lại, ngay từ khi thân xác Mẹ cưu mang chính xác thân Đấng Cứu Thế, thì Đức Giêsu con của Mẹ, đồng thời là Thiên Chúa đã thánh hóa Mẹ cả xác và hồn ngay từ lúc đầu thai. Vì vậy, sự phục sinh của Đức Giêsu không thể tách rời việc phục sinh Thân Mẫu là người đã cưu mang Cây Sự Sống nơi cung lòng thanh khiết của mình. Mẹ không thể “nhục thân bất hoại” theo lẽ thường được.
 
Jos. Vinc. Ngọc Biển
SUY NGẪM
Bà Maria, là mẹ hữu hình tại thế, sanh ra Đức Jesus Ki-Tô; sau nhiều năm xem xét lòng tôn kính sâu sắc của đa số dân Chúa và các hàng Giáo phẩm, Giáo hội dựa trên “mặc khải” tuyên bố Tín điều gồm 4 Chân lý và 3 Nguyên lý nêu trên.
Suy ra: có thể hình dung Tín điều này qua góc nhìn thần học: “Thiên Chúa xuống làm người để con người trở nên con Thiên Chúa”[1], cũng thế: Thiên Chúa xuống làm người, (vậy nên) Bà Maria trở về Trời (nên là Đức Mẹ Maria .NV). Suy ra : Bà Maria đã được Thiên Chúa thánh hóa hoàn toàn ngay tại thế gian nên “ vô nhiểm” và “đồng trinh” (NV)
TỔNG LUẬN
Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu là ngôi Bảo Tồn trong Bản Thể Hư Vô theo Vũ trụ quan Cao Đài và Đạo học Đông Phương, gọi là Mẹ hay Mẫu theo nghĩa là người sinh ra con đồng thể với mẹ. Mẹ Diêu Trì, theo giáo lý Cao Đài, ban “Chơn thần” tức bản năng cho mỗi con người được sinh ra.[2] Nên Mẹ ở đây là Mẹ thiêng liêng, vô hình.

Đúc Bà Maria là mẹ sinh ra Jesus tại thế mà Thánh kinh gọi là Chúa Cứu Thế, con một của Thiên Chúa (Chúa Cha). Do Ân phước hi hữu này, Đức Bà Maria được tôn vinh là Đức Mẹ Maria và Giáo hội xác tín là đã “thánh hóa”, nên đã về Trời cả hồn lẫn xác.
Như thế, Đức Mẹ Diêu Trì Kim Mẫu ở cõi Trời là Mẹ chung của toàn nhân loại. Còn Mẹ Maria là Mẹ tại thế, vô nhiểm, sinh ra con Thiên Chúa, nên đương nhiên được “thánh hóa” vì dự phần vào công cuộc cứu độ nhân loại qua sứ mệnh “cứu chuộc” của Đức Jesus Ki-Tô. Hơn nữa đã trở về Trời, theo Giáo Hội và đức tin dân Chúa, trở nên Mẹ thiêng liêng vĩnh cửu, biểu trưng cho tình yêu thiêng liêng, lòng thương xót đối với nhân loại.
Vậy, hai Đấng, theo tín điều của hai Tôn giáo, sự hình thành tín lý có khác nhau, nhưng đều có công đức, công năng “Làm Mẹ” trong “Thiên cơ” Cứu Độ nhân loại của Đức Thượng Đế - tức Đức Chúa Trời.



ĐỐI CHIẾU HAI TÍN ĐIỀU
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU (Giáo lý Cao Đài giáo)
                                       ĐỨC MẸ MARIA (Giáo lý Thiên Chúa giáo)          
ĐỨC MẸ DIÊU TRÌ KIM MẪU
ĐỨC MẸ MARIA
Nguồn gốc
Bản thể nguyên sơ (Vô Cực)- Vô ngã – Vô hình

Nguồn gốc
Sanh ra tại thế gian- Được Thiên Chúa Thánh hóa để thọ thai Con Thiên Chúa (Jesus)
Kinh điển
                    Phật Mẫu Chơn Kinh
'Tạo Hóa Thiên huyền vi Thiên Hậu,
Chưởng Kim Bàn Phật Mẫu Diêu Trì.'
……………………………………..

                                    

Kinh điển
“Thân xác của Người Phụ Nữ đã trao ban thể xác cho Con Thiên Chúa đã không phải chịu định luật của sự thối rữa”; “Thánh Mẫu Thiên Chúa là Đấng Vô Nhiễm Nguyên Tội, Đức Maria Trọn Đời Đồng Trinh, sau khi sống trọn cuộc đời trần thế, đã được triệu hồi cả hồn và xác vào trong vinh quang thiên quốc” (Tông hiến Munificentissimus Deus)
Công đức
Sanh hóa chúng sanh – Dưỡng dục- Giáo hóa
Công đức
Sanh Con Thiên Chúa từ thân xác vô nhiễm để Con Thiên Chúa cứu chuộc loài người

Giáo thuyết
Vạn vật nhất thể trong Bản thể Vô Cực- Chúng sanh là anh em cùng một Mẹ là Vô Cực Từ Tôn Diêu Trì Kim Mẫu[U1] .
 VÔ vi chi khí dựng càn khôn,
 CỰC điểm nguyên sanh đạo bảo tồn,
 TỪ Mẫu khuyên con tu phục vị,
 TÔN danh chủ thể giữ chơn hồn.
Giáo thuyết
 Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa. Vì Mẹ được ưu tuyển để đón nhận việc cưu mang và sinh hạ Ngôi Hai Thiên Chúa, và Đấng Cứu Thế là Thiên Chúa, nên Mẹ cũng là Thân Mẫu Thiên Chúa.”

Từ Mẫu
Mẹ vô vi ở cõi Trời ban Chơn thần nhập thế sinh ra làm người thế gian.
Tính cách làm Mẹ: Mẹ tâm linh (linh hồn)
Đức Mẹ
Mẹ hữu hình tại thế gian được thánh hóa tho thai sinh Con Thiên Chúa. Mẹ trở về Trời, con Thiên Chúa ở thế gian cứu chuộc loài người.
Tính cách làm Mẹ: Mẹ sanh trực tiếp đấng Cứu Thế tại thế gian, về Trời trở nên biểu tượng tình thương của người mẹ thánh khiết và vẫn luôn luôn bày tỏ lòng thương xót khổ nạn tại thế gian.
Thiên cơ
Đức Mẹ là Ngôi Bảo Tồn Uyên nguyên
Vĩnh Cửu
Thiên cơ
Mẹ Maria là trung gian giữa Cõi Trời và
Cõi người





[1]  “Con Thiên Chúa làm người để biến chúng ta thành Thiên Chúa”( Thánh A-tha-na-si-ô, Nhập thể 54,3. Trích lại trong GLHTCG, số 460.) http://catechesis.net/index.php/than-hoc/tin-ly/mau-nhiem-duc-giesu-kito/1346-tu-thien-chua-nhap-the-den-con-nguoi-nhap-cuoc
[2] Xem “Luật Tam Thể”, Cao Thương Phẩm : “Đệ-Nhị xác thân mà chúng ta thường gọi cái vía, tức là bãn-năng của chúng ta đó. Bãn-năng ấy là Chơn-Thần, mà chủ của nó tức nhiên là Phật-Mẫu.” Tủ Sach Đại Đạo (https://www.daotam.info/booksv/lttv.htm)


 [U1]