Thursday, October 12, 2017

Vương đạo và Bá đạo


Vương Đạo và Bá Đạo - Kim Định
·         Trị Nước theo Người xưa

Nói vắn tắt thì Vương đạo dùng đức trị, còn Bá đạo dùng lực trị "dĩ lực phục nhơn giả Bá, dĩ đức phục nhơn giả Vương" (Mạnh Tử, Công Tôn Sửu). Chúng ta cần xác định lập trường 2 chủ trương đó theo 5 nguyên tắc sau đây:

(i) Cử hiền: Chọn hiền tài tham chính qua Khoa cử.
(ii) Giáo chi: Khuếch trương một nền Giáo dục đại chúng.
(iii) Phú chi: Làm cho Dân giàu lên...(Bất hoạn quả nhi hoạn bất quân).
(iv) Lễ trị: Lấy Lễ mà trị, giảm nhẹ Hình (luật),
(v) Thành Tín: Lấy Dân làm trọng...(Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân vi khinh).

Đó là 5 điểm căn bản. Hai điểm lớn nhất là Cử Hiền và Tín (ý dân), ba điểm kia là Giáo, Phú, Lễ là những điều kiện thiết yếu làm nền móng cho hai khoản trên. Đem 5 nguyên lý đó làm tiêu chuẩn để nhận định bản chất một chính thể, chúng ta có thể biết là Dân chủ hay Độc tài. Còn nhãn hiệu bên ngoài là của nhà Chu hay gọi là Quân chủ hay Cộng hòa...gì gì nữa cũng chỉ là ý hướng muốn mưu hạnh phúc cho dân…. Chúng ta không nên chỉ trích là nệ cổ khi những điều đó đã được thi hành ở đời Nghiêu Thuấn hay nhà Chu. Người học Triết phải biết vượt qua ngôn từ để nhận ra thực chất mới là đứng trong cương vị Triết, đừng để mình bị trói buộc trong ngôn từ: "từ đạt nhi dĩ hỹ,
" (Luận Ngữ XV 40). Lời chẳng qua để diễn tả mà thôi: "res et non verba", quan trọng là nội dung chứ không phải lời nói.

Nguyên tắc thứ nhất: Cử hiền tài
Trước câu hỏi quyền bính thuộc về ai? Người có tài đức hay võ lực? Hoặc dòng tộc?
Vương đạo chủ trương thuộc người hiền đức: cắt đặt người hiền tài có năng lực (cử hiền dữ năng,
). Mặc Tử viết: "thượng hiền sự năng vi chính" tôn trọng người có đức, dùng người có tài năng làm chính sách (chương Thượng hiền).
Kinh Thi, thiên Đại Nhã: thiên mệnh không phải thường tồn; có đức thì còn, thất đức thì hết, vì quyền bính thuộc người hiền đức chứ không thuộc dòng tộc. Câu đó thường được nhắc nhở luôn dưới nhiều hình thức. Mạnh Tử nói "lập hiền vô phương" (IVb.20) cất đặt người hiền thì không kể đến phương, tức nơi xuất xứ, cũng lại Mạnh Tử viết "tam đại chi đắc thiên hạ giả dĩ nhân, kỳ thất thiên hạ giả dĩ bất nhân,
", ba đời vua trước được thiên hạ vì có đức nhân, mà mất thiên hạ vì không có đức nhân: nhà Hạ lên với Vũ có nhân mất với Kiệt bất nhân. Nhà Thương được thiên hạ với Thành Thang có nhân mất thiên hạ với Văn Võ, Châu Công nhân đức mất thiên hạ với U, Lệ bất nhân (Mạnh VII 3).
Theo nguyên lý đó Khổng Tử chỉ chú trọng tài đức mà không kể đến dòng tộc. Ông thường khen Tử Lộ dầu mặc áo thường cũng không ngại đứng vào hàng đại thần (L.N. IX 25). Và hy vọng lớn nhất của ông đặt vào một người bình dân nghèo xác sơ trong nhóm môn đệ tức Nhan Hồi.
Cũng trong dòng tư tưởng đó Khổng Tử đề cao sự quan trọng của chức quan đại thần. Dưới con mắt Khổng lúc nhà Châu thịnh đạt nhất là thời nhiếp chính của ông Chu Công. Trong L.N XIV. 20 hỏi tại sao Vệ Linh Công vô đạo mà nước còn? Được trả lời là tại biết giao cho quan đại thần cai trị (Trọng Thúc Ngữ giữ ngoại giao. Chúc Đà giữ nội vụ. Vương Tôn Giả giữ bộ binh) vì thế mà nước còn. Đó là chủ trương "quan cai trị, vua kiểm soát" tức sự quan trọng đặt nơi quan chứ không nơi vua, quan phải trung với Đạo chứ không trung với cá nhân vua "dĩ đạo sự quân, bất khả tắc chỉ,
, " (L.N. XI. 23). Chủ trương đó sau này Mạnh Tử với ý lớn: "dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh, " hoặc câu của Tuân Tử "tru bạo quốc chi quân nhược tru độc phu, " (Tuân Tử chính luận), giết ông vua tàn bạo một nước cũng như giết một kẻ độc phu (chứ chẳng thần thánh gì). Thật là sớm sủa khi ta so sánh với sự kinh hoàng của bao người Tây phương coi việc giết vua Louis XVI (Pháp) như một tội phạm sự thánh. Chung quy đó là hậu quả của thuyết Kế hiền.

Nguyên tắc thứ hai: Giáo chi
Chủ trương cử hiền tài như trên thật đáng là tinh thần Dân chủ, chỉ chưa có phổ thông đầu phiếu. Nhưng bù lại ông đã có sự bình dân hóa việc học, cố gắng giật cái độc quyền học thức ra khỏi tay phái quyền quý để mở rộng ra trong dân chúng không phân quý tiện: "hữu giáo vô loài,
" (Luận Ngữ, XV 38), trong việc giáo hóa không có phân biệt giai cấp quý tiện sang hèn.
Với chúng ta hiện nay, điều này quá tầm thường, nhưng đời Khổng thì đó là một cuộc Cách mạng tận nền. Điều đó dễ hiểu khi ta nhận xét bên các nước Âu Mỹ có tiếng là tiên tiến mà mãi tới năm 1850 mới mở cửa giáo dục cho toàn dân, còn trước kia dành riêng cho quý tộc (C.C. 152). Như thế ta thấy việc của Khổng thật là táo bạo sớm sủa và là một cú chí tử đánh vào thể chế "quyền quý thế tập": dưới con mắt họ việc nhận người nghèo hèn, người thường dân vào trường dạy cách cai trị là một việc phá rối quốc gia. Đời ông việc giáo dục toàn dân chưa được mở rộng, số người chống đối vì thế còn ít, sau nhờ môn đệ hết sức nối chí là dạy đời không biết mỏi mệt (hối nhân bất quyện) nên mới gây ra nhiều phản đối ở phía Pháp gia chủ trương giữ độc quyền giáo dục cho "quyền quý thế tập".

Nguyên tắc thứ ba: Phú chi
Muốn cho dân nhờ giáo dục thì phải có của dư dả mới tìm ra thì giờ nhàn rỗi đi học, nếu như bụng đói thì hết có thể nói đến học với hành, có hô hào cũng vô ích. Vì thế tất cả sách Mạnh Tử phản chiếu mối lo âu làm sao dân giàu "dân khả sử phú dã" (Mạnh Tử VII. 23)
Không có sách nào trong triết học tha thiết về vấn đề làm giàu dân bằng. Nên trước khi nói "giáo chi" Khổng Tử đặt "phú chi", phải làm giàu dân: bá tánh bất túc quân thục dữ túc,
(L.N.XII.9.) Bá tánh không đủ ăn thì vua đủ ăn với ai.
Chính Khổng Tử thường tuyên bố coi phú quý phi nghĩa như phù vân,
(L.N. VII 15). Muốn hiểu câu này, nên chú trọng thời đó chưa có kỹ nghệ, buôn bán chưa mở mang, người ta không có cách làm giàu nào mau chóng hơn là làm quan để bóc lột dân chúng. Chính vì tình trạng đó mà có câu "vi nhân bất phú, vi phú bất nhân, , " (Mạnh Tử III, 3). Vì thế Khổng nói: "nước vô đạo mà giàu có phú quý là điều đáng sỉ nhục, cũng như nước có đạo mà để mình nghèo nàn bần tiện cũng là đáng sỉ hổ" (L.N. VIII 14).
Điều lo âu của ông vẫn là "bất hoạn quả nhi hoạn bất quân,
" (L.N. XVI. 1),không lo không có của, mà lo có của nhưng chia không đều, vì nó dễ chạy xô vào tay mấy người có quyền thế (Việt Nam A và Việt Nam B).
Nguyên tắc quân phân tài sản đó sau này được Mạnh Tử phát huy rộng trong chủ trương "minh quân chế dân chi sản,
" (I. 6), bậc minh quân phải lo phân chia tài sản đều cho dân (đọc thêm Mạnh 1, 12, 36, 38) và làm cho dân giàu thì nước mạnh.. Và nhân đấy ông đề cao phép tỉnh điển cũng như Nho giáo chống đối việc bán đất mà sau này đời nhà Tần Thương Ưởng đã cho phép (Zenker 193, C.A Maspéro 314). Cho bán đất tức coi đất là của riêng (thiên hạ vi gia) vì nếu coi là của công thì phải để chung rồi cứ thời hạn mà phân phát. "Quân cấp" đời Lê Lợi cũng như phép hạn chế ruộng không được giữ quá 10 mẫu đời Trần bên ta là hậu quả của thuyết quân phân này. Gọi là công điền hay là đất của vua chỉ khác danh từ gọi mà thôi. Nhiều người tỏ ý mỉa mai những luật cấm không ai được tậu đất làm của tư kẻo mất quân bình. Mà không thấy rằng từ khi bãi bỏ thể chế đó, cho phép mua bán đất (đời Tần) thì sự chênh lệch trở thành quá đáng: đưa đại chúng vào cảnh nông nô cơ cực làm cớ cho những cuộc nổi loạn của Vương Mãn, An Lộc Sơn. Ở những kỳ đó thì đất vào tay những đại điền chủ, ruộng công chỉ còn lối 5% (xem chẳng hạn Histoire de la Chine de Réné Grousset: 77,114, 208 và 353).
Đây là một thí dụ cụ thể chứng tỏ khi một thể chế được bảo trợ là vì nó gây điều kiện thuận lợi cho chủ trương Vương đạo. Tuyên bố mọi đất của vua tức là một lối thi hành câu "thiên hạ vi công", nhờ đó "người 50 tuổi có lụa mặc, 70 tuổi có thịt mà ăn" (Mạnh Tử VII. 22). Những cải cách điền địa hiện nay, những khẩu hiệu "đất đai thuộc người cày cấy"… tuy khác thể chế mà tinh thần đều là "hoạn bất quân" của người xưa vậy. Không nên câu chấp danh từ để nhắm mắt trước thực tại.

Nguyên tắc thứ bốn: Lễ trị
Con người hễ đã giàu có thì sinh lễ nghĩa, nhân vị cao lên. Bởi vậy tiếp theo chương trình "giao chi, phú chi", ông chủ trương lễ trị. "Đạo chi dĩ chính, tề chi dĩ hình, dân miễn nhi vô sỉ. Đao chi dĩ đức, tề chi dĩ lễ, hữu sỉ thả cách,
, , ; , , . ", "dùng chính trị hình luật mà cai trị thì dân mới chỉ có biết tránh phạm luật, dùng đạo đức và lễ nhạc mà cai trị thì dân mới trau dồi nhân cách".
Việc lễ trị tuy phe đối lập có chủ trương nhưng muốn dành riêng cho phái quyền quý, còn thường dân thì trị bằng luật (Lễ bất hạ thứ dân, hình bất thượng đại phu,
, ) (Couvreur 153). Tuy câu này có trong Lễ ký, nhưng chắc do pháp gia đưa vào, vì nó trái ngược với chủ trương không phân biệt quý tiện của Khổng Tử. "Quân tử vô chúng quả, vô tiểu đại, " (L.N. XX 20), người quân tử không phân biệt ít hay đông, lớn hay nhỏ; như không phân biệt Kinh Thượng, ở đâu cũng phải cư xử cung kính, trung tín. "Cư xử cung, chấp sự kính. Dữ nhân trung. Tuy chi Di Địch, bất khả khí dã, , , , , " (L.N XIII 19), cư xử phải tự trọng, khi thi hành việc (với người khác) phải kính tôn. Đối với tha nhân phải trung tín. Dầu có sang miền Di, Địch (mường rợ) cũng không thể bỏ được những nguyên tắc đó. (Không được phân biệt Kinh với Thượng trong lối cư xử. Ở đâu cũng là người cả.)
Trước kia người ta dành riêng cho quý tộc được quyền đặt tên tự, mãi sau này mới mở rộng tới toàn dân. Đó là việc làm của Thương Ưởng nhưng người cổ động đầu tiên là Khổng Tử (C.A Maspéro p.95). Và lễ gia tiên, ban đầu cũng dành cho quý tộc, về sau nhờ Khổng Tử cổ động nên đã mở rộng tới toàn dân không phân biệt sang hèn (R.Grousser, Histoire de la Chine p.15). Như thế không thể bảo Khổng Tử phân biệt quý tiện, mà chính ông là người muốn đại chúng hóa lối cai trị bằng lễ.

Nguyên tắc thứ năm: Thành Tín
Lễ trị là một lối cai trị tôn trọng người dân, coi người dân như người cộng tác với chính quyền. Đã nói đến cộng tác thì chữ Tín là cần. "Thượng háo Tín tắc dân mạc cảm bất dụng tình,
, XIII". Nếu người trên thành tín thì không ai không hết tình. Đã tín thì phải coi ý dân làm trọng. Bên phía pháp trị chỉ coi trọng thần lực và dùng quyền uy vũ lực, ít chú ý đến lòng dân. Bên lễ trị thì chủ trương lấy tín làm đầu. "Kính ư dân hưng, kính ư thần vong, , " (Tả truyện). Kính nể dân thì hưng thịnh, đi cầu kính quỷ thần thì sẽ bị diệt vong và "đắc thiên hạ hữu đạo: đắc kỳ dân tư đắc thiên hạ hỹ, : , " (Mạnh Tử IV.9), có một đường lối để được thiên hạ, đó là được lòng dân và "đắc hồ khâu dân nhi vi thiên tử, " (Mạnh Tử VIIb. 14), được lòng dân ở đồng bái là làm được thiên tử (nên đọc cả câu trong sách). Trong ba vấn đề "túc thực, túc binh, dân tín nhi dĩ hỉ" thì ông cho tín là quan trọng hơn cả bởi vì "dân vô tín bất lập, " (L.N XII.7). Dân không tín nhiệm chính quyền hết đứng nổi. Do đó chủ trương "hữu nhơn tắc hữu địa", có dân tự nhiên có đất (ĐH. 10) để trả lời vào mặt mấy ông cai trị chuyên lo mở rộng đất đai, tích chứa giàu sang mà không chú ý được lòng dân.
Ông còn ghét nói đến chiến tranh binh lực. "Ký bất xưng kỳ lực, xưng kỳ đức dã,
" (L.N XIV. 35), con ngựa ký được xưng tụng không vì có sức nhưng vì đức. Sau này Mạnh Tử đã phát huy chủ trương chống bạo lực ra rộng rãi "người thiện chiến thì tội chém chưa đủ đền" (nhất tướng công thành vạn cốt khô) và nhân đó gây ra trong văn hóa Viễn Đông một bầu không khí "trọng văn khinh võ", khác hẳn ở xã hội chẳng hạn của Platon luôn luôn nói đến chiến tranh binh lực."
(Thân hữu có thể đọc đầy đủ trong Kim Định: Nho Giáo Nguyên Thủy)


Tuesday, September 12, 2017

HỌC KỆ “TÍN TÂM MINH”


HỌC KỆ “TÍN TÂM MINH”
Thiện Chí sưu tầm

Bài kệ TÍN TÂM MINH do Tam Tổ Tăng Xán (viên tịch năm 606 đời nhà Tùy, Trung Quốc) truyền lại. Kệ được xem là cốt tủy thiền đạo của Tổ nên nhiều thiền sư và cao tăng sau này đã dịch thuật hoặc bình giảng để truyền bá thiền tông.
Tại nước ta, có thiền sư Thích Thanh Từ từng thuyết giảng và dịch ra Việt ngữ, phổ biến khá rộng rãi. Đặc biệt, ngài Nguyễn Minh Thiện (1897-1972) sinh tiền là Tổng Lý Minh Lý Thánh Hội đã dịch một số đoạn của bài kệ Tín Tâm Minh rất dễ hiểu, dễ nhớ. Bài dịch chỉ gồm 20 câu, mỗi câu 7 chữ, văn vẻ bình dị mà vẫn toát lên thiền lý chân truyền tuyệt diệu.
Do tâm đắc, người viết chép lại, đọc nhiều lần, bèn khởi tâm phóng tác thành 5 vé thơ song thất lục bát để tự răn mình, cũng có khi chia sẻ với bạn đạo. Ngoài ra, còn sưu tầm các bài Thánh ngôn minh họa song song. Rất mong được chư hiền hữu đồng cảm.
Sau đây là bản chữ Hán và phiên âm 10 câu mà Ngài Minh Thiện đã rút gọn từ nguyên bản của Tổ Tăng Xán (*). Bản chữ Hán này căn cứ theo văn bản kinh điển nhà Phật được phát hiện tại Đôn Hoàng (**).
1. , .
2. , .
3. , .
4. , .
5. , .
6. , .
34. , .
35. , .
57. , .
40. , .
1. Chí đạo vô nan, duy hiềm giản trạch.
2. Đản mạc tắng ái, đỗng nhiên minh bạch.
3. Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách.
4. Dục đắc hiện tiền, mạc tồn thuận nghịch.
5. Vi thuận tương tranh, thị vi tâm bệnh.
6. Bất thức huyền chỉ, đồ lao niệm tịnh.
34. Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ.
35. Nhiệm tánh hiệp Đạo, tiêu diêu tuyệt não.
57. Nhứt thiết bất lưu, vô khả ký ức.
40. Trí giả vô vi, ngu nhân tự phược.
(*) Nguồn: sách NGÀI MINH THIỆN- Cuộc Đời & Đạo Nghiệp.
Nhà xuất bản TAM GIÁO ĐỒNG NGUYÊN San Martin, CA, USA • 2010.
Minh Lý Thánh Hội Ấn phẩm kỷ niệm lần thứ 39 ngày quy tiên của Ngài Minh Thiện (1897-1972).
http://tamgiaodongnguyen.com/Books/NgaiMinhThien.pdf.

(**) Đôn Hoàng thị 敦煌市, là một thị xã (31.200km2) nằm trong một ốc đảo sa mạc thuộc tỉnh Cam Túc, Trung Quốc. Năm 1900 một đạo sĩ họ Vương quản lý hang động tại Đôn Hoàng tình cờ phát hiện một hang nhỏ 3x3 mét, chứa hơn 50.000 cổ vật cực kỳ quý hiếm có niên đại từ thế kỷ 4 đến thế kỷ 11, trong đó kinh điển nhà Phật là một tài sản rất phong phú và vô giá. Bản chữ Hán Tín Tâm Minh trích dẫn trên đây mượn từ địa chỉ:
http://www.mahabodhisunyata.com/home/.../3-sengcan/faith-mind-inscription.


TÍN TÂM MINH
(Nguyễn Minh Thiện dịch)
TÍN TÂM MINH
(Phóng tác bản Việt dịch)
THÁNH GIÁO MINH HỌA
Chí Đạo chẳng có chi rằng khó,
Hiềm vì người cau có, so đo,
Chỉ không nên thương ghét rị mò,
Lòng thiệt trống, xét dò tỏ sáng.
Vương một mảy lầm sai chẳng hạn,
Chia đất trời cách hẳn đôi bên,
Muốn đạo cao trác lập hiện tiền,
Chớ thuận nghịch mà thiên đây đó.
Bằng trái phải đua tranh chẳng bỏ,
Ấy bịnh tâm nê cố hãy còn,
Nếu chẳng rành huyền chỉ chí ngôn,
Dầu niệm tịnh cũng khôn mấy ích.
Buông thong thả, xả đừng ràng rịch,
Thể vốn không xê dịch lại qua,
Noi tánh thường, hiệp Đạo mới là,
Hết phiền não, vào ra tự tại.
Chớ cầm giữ cái chi ở lại,
Cho Tâm còn một mảy nhớ nhung,
Người khôn ngoan vô tác thi công,
Kẻ ngu dốt đành lòng tự trói.
Đã quyết tu chớ rằng dễ khó,
Chỉ tại ta to nhỏ thiệt hơn,
Nào thương, nào ghét, giận hờn,
Lòng không trống trải nguồn cơn sao tường?
Còn một niệm vấn vương biện biệt,
Thì sai lầm chia cách xa vời,
Muốn đem đạo cả giúp đời,
Chớ vì thuận nghịch hôm mơi thân thù.
Nếu cứ mãi hơn thua thắng bại,
Chấp khư khư khó giải bệnh tâm,
Huyền vi lý một chưa thông,
Dẫu làm mọt sách cũng không ích gì!
Buông bỏ rồi, đứng đi thong thả,
Bản thể tâm chẳng khá đổi dời,
Ở sao hiệp đạo thì thôi,
Còn đâu phiền não, ta thời tự do.
Gương tâm xóa bóng mờ qua lại,
Hình không lưu, nào phải nhớ nhung,
Người khôn vô kỷ, vô công,
Kẻ dại thì vẫn ôm chầm cái ta!
Công khó há nài chỗ đắn đo,
Làm sao mai hậu được nên trò,
Thuyền từ tay lái, tay chèo chống,
Để vượt muôn trùng lượn sóng to.[1]
Chủ tình thức tâm linh chiếu diệu,
Thấu suốt điều thọ yểu cùng thông,
Tự do tự tại thong dong,
Vào ra thấy tánh chơn không hiện bày.[2]
Vui sướng chi cuộc cờ thắng bại,
Lợi bên này mà hại bên kia,
Khổ vì mâu thuẫn rẽ chia,
Ghét ganh ích kỷ, đoạn lìa tình thương.[3]
Hòa mình vạn vật cảnh thiên nhiên,
Cho hết ưu tư mọi não phiền,
Tâm được thênh thang lòng thoải mái,
Một giờ một phút cũng thần tiên.[4]
Khuyên chư đệ có thân âu phải,
Phải lo lường thân dại hay khôn,
Đừng cho mờ tối linh hồn,
Xem trò thế sự bảo tồn tương lai.[5]
CHÚ GIẢI KỆ TÍN TÂM MINH CỦA THIỀN SƯ THÍCH THANH TỪ (Tóm lược)
Chí đạo là chỗ tột cùng, vô nan là không khó, duy là chỉ, hiềm là không bằng lòng, giản trạch là lựa chọn. Chí đạo tột cùng không khó, mà khó ở chỗ còn lựa chọn.
Hào ly hữu sai, thiên địa huyền cách: nếu sai chừng một hào, một ly thì cách xa bằng trời với đất.
Vi thuận tương tranh, thị vi tâm bệnh: Người tu vừa thấy đây là thuận, kia là nghịch chống đối nhau, đó là tâm bịnh chớ không phải đạo, không phải thiền.
Phóng chi tự nhiên, thể vô khứ trụ: Nếu buông tất cả thì thể chân thật không đi, không trụ tự nhiên hiện tiền.
Nhậm tánh hiệp đạo, tiêu dao tuyệt não: Xứng với tánh thì hợp với đạo, tức là thể tánh trùm khắp, nếu sống với thể trùm khắp đó thì hợp với đạo. Khi hợp với đạo thì rong chơi thảnh thơi không rối loạn buồn rầu, hết phiền não.
Lục trần bất ố, hoàn đồng chánh giác: Sáu trần không ghét, xoay lại thì đồng với chánh giác. Niệm ưa ghét là loạn động không hợp với đạo.
Trí giả vô vi, ngu nhơn tự phược: Người trí đối với sáu trần thì tâm thảnh thơi, không ưa ghét nên gọi là vô vi.
Nguồn:
https://hoavouu.com/images/file/5-K_hmAx0QgQAP5s/tin-tam-minh-giang-giai-ht-thich-thanh-tu.pdf.


[1] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 23-12 Kỷ Dậu (30-01-1970).
[2] Đức Diêu Trì Kim Mẫu, Cơ Quan Phổ Thông Giáo Lý Đại Đạo, 13-8 Kỷ Mùi (03-10-1979).
[3] Đức Quảng Đức Chơn Tiên, Minh Lý Thánh Hội, 07-6 Tân Dậu (08-7-1981).
[4] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 23-12 Kỷ Dậu (30-01-1970).
[5] Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo, Ngọc Minh Đài, 15-7 Mậu Thân (08-8-1968).