Saturday, July 06, 2013
Friday, July 05, 2013
The Eyes In Reference To God
The Eyes In Reference To God
“Look, the LORD takes notice of (lit., the eye of the
LORD [is] toward) his loyal followers, those who wait for him to demonstrate
his faithfulness” (Ps. 33:18).
Sometimes eyes are used in reference to God. Of course God
does not have physical eyes as a person has. References to God’s “eyes” are
used as human images to help us understand something about God. “The use of
anthropomorphisms such as ‘the eyes of the LORD’”, Allan Harman writes, “is used
[sic] to teach concerning God’s nature in terms that are intelligible to us.”162 In Paradise
Lost, John Milton has to find a way to make God the Father “visible” to his
readers, and so he presents God as a character in Book 3.
Now had the almighty Father from above,
From the pure empyrean where he sits
High throned above all highth, bent down his eye,
His own works and their works at once to view (3.56-59).
Milton
presents God as a king on his throne, looking out over his dominions. He
presents him in human form to make him accessible to his readers and to allow
him to speak to his son. Because we are not God, then, there are times he needs
to be represented to us in human terms. Harman goes on to state, “They [that
is, the human images of God] are intended to bring God close to human beings in
the fullness of his personal revelation.”163 Because
God is so entirely unapproachable apart from his self-revelation to us, the
writers of Scripture speak of him as having human characteristics to help us
understand something about him. Anthropomorphisms are used so frequently in
Scripture, in fact, that they account for one-quarter of all the references to
eyes in the Old Testament.164 What
then do the “eyes” of God teach us about him?
God’s Eye As Expressing Omniscience
“Does the one who forms the human eye not see?” (Ps. 94:9)
The eyes of God teach us first that he is omniscient. In a
rhetorical question, the psalmist asks if the one who created everything
understands everything. “Does the one who makes the human ear not hear?” the
writer asks, “Does the one who forms the human eye not see?” (Ps. 94:9) Of course he sees; he sees everything.
It is not just things that exist at the present time that God knows about,
however, for he knows about everything everywhere without regard to time. Take
for instance the fact that God knew us when we were in our mother’s womb. “Your
eyes saw me when I was inside the womb,” the psalmist declares. He even knows
the day of our death before we are born: “All the days ordained for me were
recorded in your scroll before one of them came into existence” (Ps. 139:16). He knows our beginning and our
ending. God’s “sight” then is not limited by time or place; he “sees”
everything. Of course such omniscience is necessary if he is sovereign, and it
is likewise essential for him if he is to know us in Christ before the worlds
began, as indeed he does (Eph. 1:4). God sees
all physical things—things which were, which are, and which are yet to be.
God’s omniscience extends beyond seeing mere physical
presence, however. God’s sight includes knowledge of the inner thoughts and
motives of all people. He knows the nations, for instance, and foresees their
plans; he does not allow the “stubborn rebels” to “exalt themselves” against
him (Ps. 66:7). God superintends international
affairs in his sovereignty, “watching” the nations throughout history.
Likewise, he turns the king’s heart in the way he wishes, thereby effecting his
sovereign will in international affairs (Prov. 21:1).
God’s eyes on the nations lead him to judge them and even affect and control
their decisions.
As he knows the nations, so God knows individual people. God
knows their innermost thoughts. “The eyes of the LORD guard knowledge,” the
writer of Proverbs states (Prov. 22:12), and he
sees if there are any offensive or evil thoughts in us (Ps. 139:24). In these illustrations, God’s eyes
represent his righteous judgment of sinful people and nations; his eyes
represent his pure justice in the affairs of men. The adulterer is foolish if
he thinks God does not see him (Job 24:15), but
the righ rateous enjoy God’s sight, for “Look, the LORD takes notice of (lit.,
the eye of the LORD [is] toward) his loyal followers, those who wait for him to
demonstrate his faithfulness” (Ps. 33:18). In
fact, all living things—whether they know it or not—look to God for their needs
to be satisfied: “Everything looks to you in anticipation, and you provide them
with food on a regular basis,” the psalmist declares (Ps. 145:15). God’s providential care of all people
is signified by his eye watching over them.
When it comes to discerning evil, it is God’s omniscient eyes
that search it out. “The eyes of the Lord are in every place,” the writer of
Proverbs states, “keeping watch on those who are evil and those who are good” (Prov. 15:3). God distinguishes between right and
wrong, and in his sovereign wisdom leads both evil and good people for his
purposes. From the beginning he knows the evil of his people. When he warns
them not to turn to idols, he states, “After you have produced children and
grandchildren and have been in the land a long time, if you become corrupt and
make an image of any kind and do other evil things before the LORD your God
(lit., in the eyes of the LORD)..., you will quickly perish from the land” (Deut. 4:25). God searches out the evil of his
people for their own good—that they may prosper in the Promised Land and enjoy
his eternal blessings. God speaks through the prophet Isaiah telling his people
to “remove [their] sinful deeds from [his] sight” (Isa.
1:16). It is his eyes that discern the evil and warn his people against it;
he does not wish so much as to look on their sin. When God wishes to bless his
people and forgive their sins, however, he promises that their past sins will
be “hidden from [his] eyes” (Isa. 65:16, MT)—in
other words, forgotten entirely. Forgiveness is as if God cannot see the sins of
his people; he removes his people’s sins from before his eyes and “sees” them
no more.
[http://bible.org/seriespage/%E2%80%9C-pupil-your-eye%E2%80%9D-god%E2%80%99s-eye-and-our-perception]
* * *
Mắt trong sự tham khảo về Thượng Đế
“Hãy nhìn, Thượng Đế đang lưu tâm (có nghĩa mắt của Ngài hướng về) đến
những môn đồ trung kiên, họ đang chờ Ngài để chứng tỏ đức tin nơi Ngài”
(Ps.33:18)
Đôi khi mắt được dùng để tham cứu về Đức Thượng Đế. Dĩ nhiên Thượng Đế không có
con mắt hữu hình như con người. Tham khảo về “Mắt Trời” là cách dùng hình ảnh
con người để hiểu biết phần nào về Thượng Đế. Allan Harman viết: “Mắt Trời” nêu
lên những gì giúp chúng ta dễ hiễu về Thiên tính. Trong quyển The Paradise Lost, John Milton tìm cách
làm cho Đức Chúa Cha trở nên “thấy được” đối với độc giả của ông , và như thế
ông trình bày Ngài bằng một chữ trong quyển số 3.
Kìa, Cha toàn năng trên trời ,
Ngài ngự trên thiên cung tịnh khiết
Trên ngôi cao chí tôn, Ngài hướng mắt nhìn xuống,
Thiên cơ và thế sự
liền hiện ra (3.56-59)
Milton
quan niệm Thượng Đế như một vì vua trên ngai nhìn xuống thần dân của mình. Ông
thể hiện Thượng Đế bằng tính cách con người để làm cho Ngài trở nên gần gũi với
độc giả và tựa như trò chuyện với Chúa
con (Giê Su). Vì chúng ta không phải là Chúa, nên, nhiều khi Ngài cần phải lấy
ngôn ngữ thế nhân giảng dạy chúng ta. Harman nói:“Những hình ảnh người thường
của Chúa nhằm đưa Chúa đến gần chúng sanh bằng tất cả mặc khải của chính mình.
Vì Chúa là Đấng không thể tiếp cận chúng ta (một cách trọn vẹn) từ mặc khải của
Ngài, nên các tác giả Kinh Thánh mô tả Ngài bằng những tính chất con người để
giúp chúng ta hiểu biết phần nào về Ngài.
Phương pháp Nhân cách hóa rất thường được dùng trong Kinh
Thánh, thật ra, chiếm đến một phần tư trên toàn thể tham khảo về mắt trong Cựu
Ước. Vậy “mắt”của Chúa dạy chúng ta điều gì về Ngài?
Mắt Thượng Đế biểu trưng Sự Toàn tri
“ Kẻ làm nên mắt con người mà chẳng nhìn thấy sao?”(Ps.94.9)
Mắt của Chúa trước hết, dạy chúng ta rằng Ngài là đấng Toàn
tri. Trong một câu hỏi có vẻ kiêu hảnh,
tác giả Thánh thi hỏi rằng có phải người nào tạo ra mọi sự thì hiểu hết mọi sự?
Tác giả viết: “Phải chăng, người làm ra tai cho loài người lại không thể nghe?”
“Phải chăng người tạo ra đôi mắt loài người lại không thể thấy?” (Ps.94:9). Dĩ
nhiên Ngài thấy; Ngài thấy tất cả. Chẳng những Ngài biết mọi sư vật hiện hữu ngay trong hiện tại, mà
biết ở mọi nơi bất luận thời gian nào. Chẳng hạn Ngài đã biết chúng ta ngay khi
chúng ta còn trong bụng mẹ. Thánh thi viết: “Mắt của Chúa đã thấy con khi con
còn trong bụng mẹ”. Ngài còn biết cả ngày chết của chúng ta, trước khi ta được
sinh ra: “ Tất cả quá trình ngày tháng
của đời tôi đã được ấn định trong thiên thư của Ngài trước khi mỗi thời điểm xuất hiện (Ps. 139:16). Ngài
biết sự khởi đầu và sự chấm dứt của cuộc đời chúng ta. Cái “nhìn” của Thượng Đế
không bị giới hạn về thời gian hay không gian; Ngài “nhìn thấy” mọi sự. Dĩ
nhiên sự toàn tri như thế là đương nhiên nếu Ngài là Đấng Tối cao; đó cũng là
điều chính yếu đối với Ngài nếu Ngài cần hiểu biết chúng ta trong Chúa Ki Tô
trước khi thế gian thánh thiện hình thành, quả thật như vậy.(Eph.1:4) [1]. [Of
course such omniscience is necessary if he is sovereign, and it is likewise
essential for him if he is to know us in Christ before the worlds began, as
indeed he does (Eph. 1:4).] Chúa thấy mọi vật
loại đã hình thành, đang hình thành và vừa sinh ra.
Tuy nhiên, sự toàn tri của Thượng Đế còn mở rộng xa hơn nữa,
không phải chỉ thấy những vật hữu hình. Cái nhìn của Ngài còn thấu suốt cả tư
tưởng bên trong và ý muốn (động cơ thúc đẩy) của con người. Thượng Đế biết mọi
việc của tất cả các quốc gia và tiên tri mọi kế hoạch của họ, không cho phép
“nổi loạn”, tự cao, ngạo mạn đối với Ngài. (Ps.66:7). Ngài ngự trị mọi sự của
các nước trên trường quốc tế, “theo dõi” các nước xuyên suốt lịch sử. Như Ngài
có thể chuyển tâm một vì vua theo ý muốn của Ngài, như thế ý chí tối thượng của
Ngài sẽ tác động vào cuộc diện quốc tế (Pro.21:1). Mắt của Thượng Đế nhìn xuống
các nước, khiến Ngài phán đoán , thậm chí tạo ảnh hưởng và kiểm soát mọi quyết
định của họ.
Vì Thượng Đế thấu suốt mọi quốc gia, nên Ngài thấu hiểu cả cá
nhân con người. Ngài biết những suy tư tiềm tàng trong nội tâm con người. Tác
giả sách Châm ngôn trong Kinh thánh Cựu Ước viết: “ Mắt Trời là nguồn tri kiến” (Prov.
22:12), Ngài thấy hết mọi ý nghĩ mâu thuẩn hay tội lỗi nơi chúng ta.
(Ps.139:24). Có nghĩa, Ngài thẩm định một cách công chính đối với kẻ ác hay
quốc gia tội lỗi; mắt của Ngài thể hiện sự công minh tuyệt đối đối với mọi sự
việc của người thế gian. Kẻ thông dâm rất điên rồ khi nghĩ rằng Ngài không biết
việc làm của y.(Job. 24:15), nhưng Chúa chiếu cố đến những tín đồ trung thành
muốn tỏ bày lòng chung thủy cùng Ngài. (“Look, the LORD takes notice of (lit.,
the eye of the LORD [is] toward) his loyal followers, those who wait for him to
demonstrate his faithfulness” (Ps. 33:18). Thật
ra, mọi sinh vật – dù có ý thức hay không- đều trông chờ ở Chúa những nhu cầu được thỏa mãn. (Mọi vật đang
trông chờ con, và con cung cấp cho chúng thức ăn cần yếu. (Ps. 145:15)
Sự quan tâm phù hộ của Chúa đối với chúng sanh thể hiện bằng
cái nhìn của mắt Ngài bao trùm tất cả. Khi cần thấy rõ sự tội lỗi, chính Mắt
Trời toàn tri sẽ nhận ra. Sách Châm ngôn Thánh Kinh viết: “Mắt của Chúa ở khắp
mọi nơi, luôn nhìn ra kẻ xấu và kẻ tốt” (Prov.15:3). Chúa phân biệt phải
trái,và với sự minh triết tối thượng của Ngài, Ngài sẽ điều khiển cả kẻ xấu lẫn
kẻ tốt theo những mục đích của Ngài. Từ khi bắt đầu biết tội lỗi của con người,
lúc Ngài cảnh báo cho họ không được quay lại sự tôn thờ hình tượng, Ngài phán:
“ Sau khi các ngươi sanh con đẻ cháu và sinh sống lâu đời trên thế gian, nếu
các ngươi trở nên hư hỏng (corrupt) và làm hình tượng của bất cứ vật gì hay làm
các tội lỗi khác trước mắt Chúa Trời, các ngươi sẽ bị hủy diệt (perish) trên
thế gian. (Deut. 4:25)
Chúa tìm ra tội lỗi con người để (giúp) họ trở nên hoàn
thiện, nhờ đó họ sẽ sống thịnh vượng trên Đất hứa và thụ hưởng phúc lành vĩnh
viễn. Chúa bảo Tiên tri Esai hãy bảo với
mọi người “ Hãy đem những con chiên tội lỗi ra khỏi mắt ta” (Esa. 1:16).
Mắt Ngài phân biệt rõ những sự xấu xa và dạy con người phản kháng chúng. Ngài
không muốn nhìn vào những điều đó. Ngài ban phúc lành cho con người và tha thứ
tội lỗi, hơn nữa, Ngài lại hứa những lỗi lầm quá khứ của họ sẽ được cất khỏi
mắt của Ngài. (Isa.65:16 MT), tức là tha thứ hoàn toàn. Sự tha thứ của Chúa có
nghĩa Ngài không bao giờ (muốn) nhìn thấy tội lỗi con người dưới mắt Ngài.◙
[1] 1:4
For he chose us in Christ before the foundation of the world that we may be
holy and unblemished in his sight in love.
Sunday, June 09, 2013
BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC
CƠ QUAN PHỔ THÔNG GIÁO LÝ ĐẠI ĐẠO
Thuyết Minh Giáo Lý
BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN
TỘC
Rằm tháng 2 Bính Tuất 2006
Thiện Chí
Mỗi dân tộc trên thế giới, từ thời dựng nước, trải qua lịch
sử thăng trầm giữ nước, xây dựng đời sống nhân dân no ấm phồn vinh, phát huy
văn hóa dân tộc, phát triển văn minh là một chuỗi dài nỗ lực và hy sinh của
nhiều thế hệ.
Mỗi
dân tộc đều tự hào về di sản của ông cha và tiếp tục giữ gìn phát huy truyền
thống tiền nhân để lại hầu bảo vệ xây dựng tổ quốc trường tồn, tiến bộ không
ngừng.
Chính
tình yêu nước thiêng liêng, ý chí quật cường, trí tuệ sáng tạo, lòng biết ơn tổ
tiên, cộng với dân tộc tính, với bản sắc văn hóa đã đúc kết nên bản chất tiềm
tàng trong mỗi người dân. . . Rồi truyền thụ từ thế hệ này sang thế hệ khác,
thấm nhập giá trị nhân bản phổ quát đại đồng trong dân tộc và có khả năng tiến
hóa hòa hợp với các dân tộc khác trên hế giới.
Với
những đặc tính trên, có thể gọi “bản chất” ấy là BẢN THỂ ĐẠI ĐỐNG DÂN TỘC.
Trước
khi tìm hiểu Bản Thể Đại Đồng Dân Tộc, cần định nghĩa hai chữ “bản thể”, một
danh từ triết học có ý nghĩa rất đặc biệt.
1.Theo
các tự điển triết hoc Việt Nam
và Anh ngữ thì Bản thể là thực tại tự
thân ( reality in itself ), chỉ
có thể tiếp cận bằng trí thức trực giác chứ không thể biết được bằng cảm quan.[1]
2. Đại Động Chân Kinh viết: “Căn bản vốn tại Trung tâm... Suy cho cùng
Bản thể vốn tại Trung tâm.Các hiện tượng bên ngoài đều bắt nguồn từ bên trong. Các ứng dụng hiển
lộ ra bên ngoài cũng đều từ bên trong sinh xuất...” (Căn bản
nguyên do Trung... Cứu kỳ căn bản thực
do ư Trung. Hiển lộ ngoại giả, bản hồ nội. Chiêu hồ Dụng giả, do hồ Thể dã)
ĐĐCK, q. hạ, tr. 11b. (Dẫn theo BS. Nguyễn Văn Thọ, Tinh Hoa Các Đạo
Giáo, tr. 282.)
3. Thánh giáo Cao Đài
viết: “Đạo là bản thể vũ trụ, tối cao tối thượng, mà Đạo cũng là nguồn sống của vạn vật chi linh. Do đó mà những bậc thánh triết hiền nhân quân tử mới dám xả thân cầu Đạo, đem sự tín ngưỡng, đem hành động nghĩa nhân đạo đức gây được uy tín trong nhân
gian để đem họ hiệp về con đường Đạo là nguồn sống.” [2]
5. Đạo Học Chỉ Nam viết: “Nguồn gốc vũ trụ, người vật, đông tây, nay và xưa, ai cũng công nhận trong kiền khôn
thế giới, có một Bản nguyên chủ
tể làm trung tâm điều lý. Người vật từ đó mà ra, vạn đức bởi đó mà
vào...” [3]
Cuối
cùng, định nghĩa đạo học đã bổ sung định nghĩa triết học để cho chúng ta khái
niệm tổng hợp sau:
Nếu chúng ta tư duy về vũ trụ thì vũ trụ
bao hàm Bản thể và hiện tượng. Bản thể của vũ trụ là Cái-tự-nó hay thực tại tự
thân, là nguyên thủy của vạn vật thuộc
về hiện tượng. Vạn vật biến đổi không ngừng, nhưng luôn luôn
còn tương quan với Bản thể. Bản thể bất biến nhưng vẫn luôn luôn tác động vào
vạn vật.
Nếu
Bản thể là Nguồn gốc, là Tuyệt đối thể bất biến của vạn vật thì Bản thể phải là
thưc tại toàn chân, toàn thiện, toàn mỹ. Đồng thời Bản
thể cũng là cứu cánh tiến hóa của vạn vật. Nên tuy muôn loài vạn vật có vô số
hình thức khác nhau nhưng cùng có chung một Bản thể. Chính Bản thể làm cho vạn
vật có tính đại đồng tiềm ẩn.
Xét về mặt tiên thiên thì Bản thể của vũ trụ vạn vật là Vô cực –
Thái cực – Đại linh quang. Con người
thọ bẩm Tiểu linh quang từ Đại linh quang.
Xét về mặt hậu thiên thì nhân loại cùng có một Bản thể đại đồng, đó
là Nhân bản, là bản vị đánh giá nấc thang tiến
hóa làm người không phân biệt màu da sắc tóc.
Xét trong phạm vi một dân tộc, thì Bản thể đại đồng dân tộc còn
được un đúc thêm vào Nhân bản những bản chất đặc thù của dân tộc đó, mà bất cứ
người dân nào mang huyết thống giống nòi đều thừa hưởng Bản thể đại đồng ấy.
Vậy
Bản thể đại đồng dân tộc của dân tộc Việt Nam là gì?
Đối với dân tộc Việt Nam, có thể nói các cơ cấu:
*TÂM THỨC GIỐNG NÒI;
*TÂM THỨC LƯỠNG HỢP ÂM
DƯƠNG
*TÂM THỨC THIÊNG LIÊNG và
VŨ TRỤ;
*ĐỊA LINH TỔ QUỐC;
*VĂN HÓA DUNG HỢP;
*LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ
Tất cả kết thành Bản thể đại
đồng dân tộc Việt Nam.
I. TÂM THỨC NÒI GIỐNG RỒNG TIÊN
Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (phần ngoại kỷ) của
Ngô Sĩ Liên (thời nhà Lê, thế kỷ 15), viết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam (dã sử) như
sau:
Kỷ Hồng Bàng thị:
Kinh Dương Vương:
Kinh
Dương Vương tên húy là Lộc Tục, con cháu Thần Nông thị. [...]
Thần
Nông thị là Đế Minh sinh ra Đế Nghi. Rồi Đế Minh đi tuần đến phương Nam, lấy con gái Vụ Tiên mà sinh ra
Vua [Kinh Dương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý,
muốn cho nối ngôi, Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập
Đế Nghi làm con nối ngôi trị phưong Bắc, phong cho Vua
là Kinh Dương trị phương Nam,
gọi nước là Xích Quỷ. Vua lấy con gái của Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân:
Lạc
Long Quân tên húy là Sùng Lãm, con trai của Kinh Dương Vương.
Vua [Lạc Long Quân] lấy con gái của Đế Lai là Âu
Cơ, sinh ra trăm con trai
(tục truyền sinh ra trăm trứng) là Tổ của Bách Việt. Một hôm Vua bảo Âu Cơ
rằng: “Ta là giống Rồng, nàng là giống Tiên... bèn chia 50 con theo mẹ về núi
ở, 50 con theo cha về miền nam (có bản chép là về Nam Hải), phong con trưởng
làm Hùng Vương nối ngôi. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là nước Văn Lang
(nước ấy phía đông giáp Nam Hải, phía tây đến Ba Thục, phía bắc đến hồ Động
Đình, phía nam giáp nước Hồ Tôn, tức Chiêm Thành), đóng đô ở Châu Phong (nay là
huyện Bạch Hạc) chia nước làm 15 bộ...[4]
Trăm con của
Lạc Long Quân & Âu Cơ
*
@ Chính do huyền thoại
trên đây, ban đầu được truyền khẩu qua nhiều đời đã tạo cho dân tộc Việt Nam
một tâm thức nòi giống Rồng Tiên, dần dần được ghi chép thành truyện, thành dã
sử. Đã là dã sử thì không thể bàn
chuyện thực hư; điều đáng quan tâm là tâm thức ấy đã biểu hiện ra trong đời
sống dân tộc như thế nào, ảnh hưởng vào phong tục tập quán, văn hóa xã hội, đúc
kết nên dân tộc tính đặc thù miên viễn.
@ Nhà nghiên cứu Nguyễn Thị Huế có
công trình nghiên cứu điền dã, đi tìm hiểu thực tế những chứng tích về họ Hồng
Bàng ở Bắc Ninh, đã viết như sau:
“Ở một bãi rộng của
dòng sông Đuống thuộc xã Á Lữ vùng Luy Lâu xưa đã có lăng Kinh Dương Vương. Đó
là một gò đất vuông vắn, cao ráo trên bãi bồi của một khúc sông Đuống. Lăng nhỏ
nhưng nghiêm trang, có bia ghi sự tích rõ ràng, có hoành phi: Nhật trùng quang / Nam bang thủy
tổ.
“Và các câu đối như: Lập
thạch ký công Nam
thánh tổ, / Phong phần tổ phận Bắc thần tôn.
|
Lăng Kinh Dương Vương (ThuậnThành-Bắc Ninh)
Ảnh Nguyễn Cao Hách
“Ở phía nam của Bắc Ninh, ngoài Á Lữ còn có 15 địa điểm thờ
Lạc Long Quân, Âu Cơ và 56 địa điểm thờ các thần Bách Noãn. Trong số thần Bách
Noãn được thờ thì có ba địa điểm thờ Hùng Vương (con trưởng) và 53 nơi thờ các
vị khác...
|
|
Mộ Tổ Hùng Vương - Ảnh Cao Lĩnh
@ Hội thờ Âu Cơ:
“Cùng
với việc thờ Lạc Long Quân, nhân dân ở đây (và trong vùng) cũng thờ người mẹ
khai sáng giống nòi là bà Âu Cơ.
“Khác với Lạc Long Quân, những công
việc của bà mẹ Âu Cơ đã được cụ thể hóa thành những bà Dâu, bà Đậu, bà Dàn, bà
Mẹ Nước, bà Phật Mẫu Man Nương, v.v... được kể và được thờ thành một hệ thống
khắp trong vùng Thuận Thành, Gia Lương. Đó là những bà mẹ biết dạy dân làm
những công việc khai sáng. Như bà Man Nương biết dạy dân đào giếng lấy nước
chẳng hạn, bà Dâu biết dạy dân trồng dâu nuôi tằm, bà chúa Á dạy dân xe tơ tằm
thành chỉ để dệt vải may quần áo mặc.” [5]
II. TÂM THỨC LƯỠNG HỢP ÂM DƯƠNG - TÂM THỨC THIÊNG LIÊNG VÀ
VŨ
Các nhà khảo cổ học và dân tộc học nghiên cứu hoa văn trên trống đồng ở nước ta có niên đại từ khoảng thế kỷ VII trước CN, trùng với khung thời gian và khung không gian xã hội Văn Lang - Âu Lạc (vùng Bắc Việt Nam và khu vực Nam Hoa Nam Trung Quốc), đã nhận định rằng người Việt cổ từng thể hiện những tâm thức Âm Dương trong đời sống giữa thiên nhiên và tâm thức thiêng liêng tương quan giữa con người và trời đất.
Các nhà khảo cổ học và dân tộc học nghiên cứu hoa văn trên trống đồng ở nước ta có niên đại từ khoảng thế kỷ VII trước CN, trùng với khung thời gian và khung không gian xã hội Văn Lang - Âu Lạc (vùng Bắc Việt Nam và khu vực Nam Hoa Nam Trung Quốc), đã nhận định rằng người Việt cổ từng thể hiện những tâm thức Âm Dương trong đời sống giữa thiên nhiên và tâm thức thiêng liêng tương quan giữa con người và trời đất.
1. Tâm thức Âm Dương hay Lưỡng phân – luỡng hợp:
Trong quyển “Trống Đông Sơn” do nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, Hà
Nội, 1987 (nhiều tác giả) có viết: “Bằng tư duy liên tưởng, Bà P. Maspêrô đã
nhìn đến ý nghĩa lưỡng hợp – lưỡng phân ở các biểu tượng của nền văn hóa Đông
Nam Á, trong đó có các biểu tuợng trên trống đồng. Nhiều nhà nghiên cứu nước ta
cũng đã thấy yếu tố âm dương thể hiện ở họa tiết hoa văn trên mặt trống: cánh
sao tượng trưng yếu tố dương, hoa văn “lông công” xen kẻ giữa các cánh sao
tượng trưng yếu tố âm. Các hoa văn chim, hươu đối lập với các hoa văn cá
rắn...”-[6]
2. Cộng với tâm thức lưỡng hợp là tâm thức thiêng
liêng:
Nhiều học giả cho rằng các cảnh trên trống đồng có liên quan đến
tục thờ mặt trời. Những hình ảnh hội đua thuyền, hội nước, với trống đồng có ý
nghĩa cầu nuớc, cầu mưa vì tiếng trống liên quan đến tiếng sấm.
“Các tác giả cho rằng trống đồng là vật thiêng, làm trung gian giữa
cõi sống và cõi chết, giữa con người và thần linh.” (Sđd, tr. 237)
. Đồng thời có tín ngưỡng cổ sơ thờ Trời Đất, với tâm thức “cha Trời, Mẹ đất”, “trời tròn, đất vuông”. Vuông, tròn là khái niệm âm dương lúc sơ khai, đồng thời cũng mang ý nghĩa cầu mong sự tốt đẹp.
Tục thờ Bàn Thiên không biết phát sinh từ thời nào, nhưng rất phổ
biến trong dân gian từ Bắc chí Nam,
nhất là từ Huế trở vào. Bàn Thiên là một bệ thờ chừng 4-5 tấc vuông được đặt
trên một trụ cao khoảng 1,50 m ở trước sân nhà. Trên bệ thờ chỉ có lễ vật đơn
sơ: hoa, nhang, 3 chung nước, có khi thêm gạo, muối. Mỗi tối gia chủ thắp nhang
trước Bàn Thiên khấn nguyện Trời Đất rồi xá bốn hướng. Tín ngưỡng cha Trời mẹ Đất còn mang mối quan hệ ba ngôi Tam tài (Tam hoàng): Thiên
hoàng, Địa hoàng, Nhơn hoàng; con người ở giữa Trời và Đất phải thông thiên,
đạt địa.[7]
3.
Tâm thức về vũ trụ:
“Cũng
có ý kiến cho hoa văn trống Đông Sơn là biểu hiện của một mô hình vũ trụ theo
quan niệm của người xưa: mặt trống thể hiện cõi trời, cõi đất, tang trống thể
hiện cõi nước., lưng trống thể hiện cõi âm.” […] “Có
thể người xưa đã có ít nhiều khái niệm về vũ trụ. Trang trí mặt trời được đặt ở
trung tâm mặt trống, các hoa văn người và động vật có hướng ngược chiều kim đồng hồ...” [8]
III. TÂM THỨC ĐỊA LINH TỔ QUỐC
Ba núi thiêng vùng đất tổ:
1.
Lê Quí Đôn viết trong Kiến Văn Tiểu Lục (1723-1733): “Núi Tam Đảo thuộc huyện Tam Dương. Mạch núi này do khí
thế cao cả của các núi ở các xã Ký Phú, Huân Chu và Cát Nê thuộc huyện
Phú Lương và Đại Từ từ trấn Thái Nguyên kéo đến. Đến đây đột khởi ba
ngọn cao vút đến tận mây xanh [...] ở giữa là ngọn Thiên Kim, cao chót vót,
ghềnh đá không biết bao nhiêu mà kể. Sườn núi có chùa Tây Thiên, tre xanh thông
tốt, cảnh sắc trang nhã.
Trên
núi cao lại có chùa Đồng Cổ, vừa lên vừa xuống phải mất hai ngày...”
2.
Cũng trong Kiến Văn Tiểu Lục, Lê Quí Đôn viết: “Núi
Tản Viên, địa giới ở huyện Bất Bạt và Minh Nghĩa, mạch núi từ Mường
Thanh liên tiếp chạy dài, đến đây thì nổi vọt ba ngọn thành hàng ở giữa hai sông
Thao, Đà, cảnh sắc xinh tươi, hình thể cao cả, như trấn giữ đất nước. Ngọn
giữa rất cao thờ thượng đẳng thần linh; đỉnh núi, sườn núi và chân núi có các
đền thượng, trung và hạ, núi cao sát chân trời xanh, suốt ngày có mây mù bao
phủ.”
3. Còn núi Hùng, tương truyền là nơi xưa kia Hùng
Vương dựng cung điện được Lê Hải Cương mô tả trong Địa Dư Chí như sau: “Mạch
núi từ Tam Đảo bổ xuống... ở phía tây núi non la liệt, phía đông có nước
sông Đà lượn quanh, lại có các ngọn nước tụ hội ở ngã ba sông, thật là bố
cục lớn về phong thủy. Trên núi có miếu Hùng Vương, bên cạnh miếu có hai cột
đá, lại có chùa Thiên Quang.
“Nếu lấy đền Hùng làm trung tâm với bán kính khoảng 20 cây số
thì kinh đô Phong Châu xưa là một vùng rộng lớn, nơi hội tụ của trời đất, nước
và con người. Những di chỉ khảo cổ trong vùng đã và đang minh chứng cho một bề
dầy lịch sử hàng ngàn đời của vùng đất tổ
này.” [9]
Mặt trống đồng Đông Sơn
IV. VĂN HÓA DUNG HỢP
Nghiên
cứu nền văn hóa nguyên thủy của người Giao Chỉ, các nhà khảo cổ học và dân tộc
học cho rằng khởi đầu đó là những nét văn hóa phát sinh từ đời sống nông
nghiệp. “Hoa văn trống đồng đã ghi lại những dấu vết của sinh hoạt thị tộc,
những dấu vết của nghề săn bắn và những hình thức sớm của nghề trồng trọt với
tính cách là những hình thức sản xuất chủ yếu, cùng với những hình thức tổ chức
xã hội và và các thiết chế xã hội tương ứng... Những nghi lễ được ghi khắc trên
đó, có từ thời cổ đại, qua suốt thời kỳ trung cổ và tồn tại mãi cho đến gần
đây. Đó là cái mà nguời ta thường gọi là nghi lễ nông nghiệp với tục thờ sinh
thực khí.” [10]
Từ đó người Việt cổ có tục thờ Man Nương (man: mưa), để rồi đến
khi Đạo Giáo du nhập vào, thì Man Nương trở thành Mẫu Man Nương, vị nữ thần
giúp dân có được mùa màng sung túc, đời sống ấm no; và tâm thức sùng bái thiên
nhiên trời đất trở thành tín ngưỡng thờ Tứ Pháp (Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi,
Pháp Điện).
|
Đền thờ các Thánh Mẫu ở Phủ Dầy (Nam
Định)
Đến
thế kỷ III, khi Sĩ Nhiếp được Hán đế phong làm thái thú Giao Châu, thì người
Giao Chỉ được tiếp thu văn hóa Tam Giáo từ phương Bắc và văn hóa Ấn do các đại
sư truyền sang. Sử thần Ngô Sĩ Liên viết: “Nước ta được thông Thi Thư, tập Lễ Nhạc là
một nước văn hiến bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không chỉ ở đương thời mà có
thể tryền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?”
Đền
thờ Sĩ Nhiếp – Nam Giao học tổ, tuy bị hư hỏng nhiều nhưng vẫn còn trong thành
Luy Lâu (vùng Kinh Bắc nước ta). Ông là người đã đem văn hóa Trung Quốc truyền
vào Luy Lâu một cách mạnh mẽ, đàng hoàng và hệ thống, nhưng cũng là nguời có
công tu tạo, tôn vinh, quy chuẩn phong tục bản địa. Ông là người đã mở trường dạy
Luận Ngữ rồi đến Ngũ Kinh.
Ông
cũng là người sai tạc tượng Tứ Pháp, lấy gỗ từ cây đa do Man Nương kéo từ dưới
sông lên.
Phải
chăng ông đã kết hợp được Nho, Phật, Đạo, phát triển được văn hóa dân gian nên
tạo được cảnh hòa bình trong hơn 20 năm? [11]
V. LỊCH SỬ NƯỚC NHÀ
Lịch
sử nước nhà là chuỗi dài thời gian trong đó diễn ra những sự kiện, những biến
cố tác động một cách tiêu cực hoặc tích cực vào quá trình tồn tại và phát triển
của dân tộc trong quốc gia. Nói khác đi, lịch sử là những gì ghi nhận thành quả
lao động, chiến đấu, tư tưởng trong quá trình xây dựng, bảo vệ đất nước và phát
triển của một dân tộc.
Trên
dòng lịch sử trải nhiều thế hệ, mỗi thế hệ thừa kế, phát huy tinh thần dân tộc
của thế hệ trước, lại sáng tạo, xây dựng những kỳ công mới, tất cả un đúc thành
bản chất đặc thù của dân tộc, thấm nhập trong tâm khảm và đời sống của mỗi con
dân.
Nhìn
lại lịch sử Việt Nam,
những thời đại uy hùng đã làm nên bản chất ấy, nhờ đó dân tộc ta tồn tại trên
một lãnh thổ toàn vẹn, một nền văn hiến rực rỡ, một truyền thống đạo đức nhân
bản.
* Thời đại Hùng Vương dựng nước Văn Lang với niềm tin con
Rồng cháu Tiên, với tình đồng bào “một mẹ trăm con”, với tinh thần quật cường
thánh Gióng chống giặc.
* Thời đại Đại Việt, với tâm thức thiên mạng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư, / Tiệt nhiên định phận tại thiên thư; / Như hà
nghịch lỗ lai xâm phạm, / Nhữ đẳng hành khang thủ bại hư.
* Rồi ý chí kiên cường, lòng tự tin sắt đá “Đầu hạ thần chưa
rơi, xin bệ hạ đừng lo” cộng với tinh thần dũng mãnh chống xâm lược của toàn
dân qua tiếng thét đồng tâm “quyết chiến “của hội nghị Diên Hồng... tất cả đã
làm nên giáp sắt cho dân tộc và thành đồng cho tổ quốc.
Đó
là tinh thần độc lập tự chủ, là thiên bẩm thiêng liêng của con người, là quyền
tự do của mọi dân tộc, khiến cho người dân “thà hy sinh tất cả chứ không chịu
làm nô lệ”. Đối với dân tộc Việt Nam, tinh thần đó càng không phải
là tính hiếu chiến.
Bình
Ngô Đại Cáo của Nguyễn Trãi là tuyên ngôn của Vua, là tâm huyết của toàn dân,
tuy rất căm thù giặc Minh xâm lược “Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội; dơ bẩn
thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi.” Nhưng vẫn thể hiện tính nhân nghĩa, đức hiếu sinh là huyết
thống ngàn đời của dân Nam:
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, / Lấy chí nhân để thay cường bạo.”
Và:
“thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh.”
Những
thời kỳ đất nước thanh bình thịnh vượng, dân tộc ta vốn có bản năng dung hợp
văn minh văn hóa các dân tộc khác từ phương Bắc xuống, từ Ấn Độ sang, từ Đông
Nam Á đến, cộng với căn bản văn hóa và tín ngưỡng thời nguyên sơ trên đất tổ,
đã sản sinh ra những bậc minh triết thượng thừa trong Tam Giáo đạo, những anh
tài, thục nữ, những hàng tế thế an bang, những văn hào lỗi lạc... Tất cả đã góp
phần xây dựng một nền văn hóa dân tộc, văn hóa đạo đức làm nền tảng cho đời
sống nhân sinh an lạc và thiên hướng tâm linh dung hóa.
Đến
thời cận kim, hiện đại, những thử thách lịch sử khốc liệt cũng không thể đánh
mất tiền định “độc lập, tự chủ” của giống dòng Âu Lạc, mà còn minh chứng những
giá trị tinh thần ngàn đời đã làm nên một Việt Nam bất diệt.
VI. BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC
Từ
tâm thức giống nòi Rồng Tiên, đến tâm thức lưỡng hợp Âm Dương – một ước vọng
phồn thịnh hóa cuộc sống; tâm thức đơn sơ về vũ trụ: người vật xoay chuyển
chung quanh trung tâm mặt trời; trực nhận khí thiêng sông núi, địa linh đất tổ;
bản năng dung hợp văn hóa; lòng yêu nước nồng nàn, tình đồng bào thắm thiết,
niềm tin độc lập tự chủ với thiên hướng sùng bái thần linh, tín ngưỡng thờ Trời
Đất... đã tổ hợp thành một Bản thể
vô hình mà sở năng sở dụng có giá trị thống nhất tinh thần mỗi con dân
nước Việt, để:
-
Đoàn kết chiến thắng xâm lăng khi quốc biến,
-
Xây dựng đất nước, phát huy văn hóa thuở hòa bình,
-
Thăng hoa tâm linh trong cuộc sống nhân sinh an lạc.
Bản
thể ấy không thấy được bởi biến hóa như con Rồng thiêng uy dũng, không sờ chạm
được mà an nhiên, nhân ái do phẩm chất con Tiên. Nó bao hàm sức sống bất diệt
lẫn tâm tâm linh siêu xuất. Những dấu ấn bốn ngàn năm lịch sử và thực tế trường
tồn của dân tộc trên nền văn hiến huy hoàng sâu sắc, với khả năng thâu hóa dung
hợp vân minh Đông Tây của thế giới, đã minh chứng Thực tại thiêng liêng ấy hay Bản thể đại đồng của
dân tộc Việt Nam là di sản vô giá, là lẽ sống và năng lực tiến hóa vĩnh
cửu.
VII. BẢN THỂ ĐẠI ĐỒNG DÂN TỘC VÀ THỜI
ĐẠI TAM KỲ PHỔ ĐỘ
Chính
bởi dân tộc Việt Nam
có một Bản thể như thế nên đã được Đức Chí Tôn ban trao sứ mạng hoằng khai Đại
Đạo Tam Kỳ Phổ Độ: “Các con là dân tộc
Việt cũng như dân tộc khác sanh trưởng tại quả địa cầu này. Tình thương Tạo Hóa cũng ban đồng cho các con cũng như các
con khác, nhưng dân tộc các con đã đau khổ quá nhiều, non sông tổ quốc các con
đã bị dày xéo lâu đời. Nhưng các con trội hơn chúng về đức tin, lòng đạo đức ngưỡng mộ Thượng Đế và các Đấng trọn lành. Tình
thương các con không thiếu, lòng hiếu hòa các con có thừa. Do đó, dân tộc các
con mới hạnh ngộ Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ” (Đức Chí Tôn, Thiên
Lý Đàn, 19-12-1968)
Đức
Từ Mẫu cũng nhấn mạnh vinh hạnh ấy của Việt Nam: “Luật định thiên nhiên, Tam nguơn vận chuyển, đến thời kỳ phải dùng
tiểu quốc để khai Hội Niết Bàn nên muợn Việt Nam ban truyền chánh đạo.”
Vậy
“mượn Việt Nam
ban truyền chánh đạo” không phải là một sự tình cờ, mà chính vì Việt Nam có khả năng
tiếp nhận và phát huy chánh đạo.
Chánh
đạo là Đại Đạo. Đại Đạo là Nhứt nguyên của Tam Giáo và nhứt lý của vạn giáo. Nhìn lại nền văn hóa đạo đức
của dân tộc, nhen nhúm từ sơ khai, sáng chói thời Lý Trần, âm ỉ mãi về
sau, giáo lý Tam Giáo đã được dung hợp và chuyển hóa sâu sắc trong tinh thần
lãnh đạo quốc gia của các bậc minh quân, thấm nhuần trong tình yêu nước thương
dân của các bậc công thần, thể hiện trong phong tục tập quán, trong sinh họat
tâm linh của người dân Việt.
Vua Trần Thái Tông từng viết: “Nho điển
thi nhân bố đức, Đạo kinh ái vật hiếu sinh, Phật duy giới sát thị trì.” (Sách đạo Nho dạy thi nhân bố đức, Kinh đạo Lão bảo yêu thương mọi vật và tôn trọng sự sống,
thì đạo Phật cũng chủ trương là hãy giữ giới sát đừng sát sinh hại vật.)[12]
“Từ
năm 1237, vua Trần Thái Tông bắt đầu chấn hưng Quốc học trên nền tảng tinh thần
Tam Giáo, cho nên mới có kỳ thi Tam Giáo vào năm 1247, mùa thu. Việt Sử Cương
Mục chép:
“Trước
đấy những nhà nho theo Nho Giáo, Thích Giáo, Đạo Giáo mà có con nối được nghiệp
nhà đều cho vào thi. Nay lại thi những người thông cả ba khoa về ba tôn giáo.”
(Ch. b. VI.30)
Viện Quốc Học (Văn Miếu Quốc Tử
Giám)
Năm
1253, nhà vua lập Viện Quốc Học. Khi Viện xây xong, nhà vua bắt đắp tượng Chu
Công, Khổng Tử và Mạnh Tử và vẽ 72 người hiền để thờ. Lại hạ chiếu cho học trò
trong nước vào Viện Quốc Tử để giảng nghĩa lý Ngũ kinh, Tứ thư. Như thế đủ tỏ
rằng nhà vua ngày càng tôn trọng Nho Giáo ngang hàng với Phật giáo và Lão
giáo...” [13]
Lễ hội Đền Hùng
Đức Trần Hưng Đạo
Đức
Trần Hưng Đạo cầm quân oai dũng đánh tan giặc Nguyên, trung quân ái quốc trọn
đời, đến lúc lâm chung còn để lại tâm huyết với vua rằng: “Khoan thứ sức dân, lấy kế bền gốc sâu rễ là thượng sách giữ nước.”
Nguyễn Trãi
Nguyễn
Trãi khi được vua sai định lễ nhạc đã tâu rằng: “Đời loạn thì dùng võ, thời
bình thì dùng văn. Ngày nay định ra lễ nhạc là đúng lúc. Song không có gốc thì
không thể đứng vững, không có văn thì không thể lưu hành... [...] Dám mong bệ
hạ rủ lòng thương yêu và chăn nuôi muôn dân, khiến trong thôn cùng sớm vắng
không còn một tiếng hờn giận oán sầu, đó là cái gốc của nhạc vậy.” [14]
Nên đến thời Tam Kỳ Phổ Độ, chơn linh bậc cao tăng
đời Lý, đức Vạn Hạnh Thiền Sư còn thắp sáng lại truyền thống đạo đức dân tộc:
Chuỗi dài ý hệ cõi Nam giao,
Thánh Đạo Nho
Tông những sắc màu,
Đã có trường thi Tam Giáo trước,
Nhịp cầu nối tiếp nhịp theo sau.
. . .
Đó là Tam Giáo được đồng nguyên,
Về với ông cha một chiếc thuyền,
Thuyền đạo đóng bằng tư tưởng đạo,
Cho tròn danh nghĩa đấng Cao Thiên.[15]
Bản
thể đại đồng dân tộc không chỉ đơn thuần mang tính tôn giáo, ngược lại có đủ
bản chất nhân sinh lẫn tâm linh, nó đã đúc kết những tác năng có giá trị chân
thiện mỹ làm thành cái HỒN VIỆT NAM, làm lẽ sống, làm nguyên lý tiến hóa bất diệt. Đó
là bản chất Đại Đạo vừa thiên phú vừa tự xiển dương của dân tộc ta.
Thế
nên bất cứ thời nào, hoàn cảnh nào, Việt Nam đều có thể vận dụng Bản thể ấy
để tồn tại và phát triển:
Thiên hạ đua nhau kiếm đũa thần,
Để lo trị quốc với an dân,
Đũa mình sẵn có, cơm mình có,
Mượn chác làm chi nhục trí nhân.[16]
Nếu
các nhà dân tộc học cho rằng một trong những ý nghĩa của trống đồng Việt Nam là trung
gian giữa con người và thần linh, thì ngày nay đạo Cao Đài có thể nói: Bản thể đại đồng dân tộc là gạch nối giữa dân tộc và anh linh tổ quốc. Bài kinh cúng chư
thần Việt Nam
trong đạo Cao Đài là một minh chứng:
Trời
Nam đất Việt cao dày,
Hồng Bàng mở nước đến nay năm ngàn.
Âm dương tụ khí thanh chơn,
Non sông linh tú xuất sanh thánh thần.
Từ Hồng Lạc đến trào Trần,
Biết bao liệt sĩ chơn nhơn độ người.
Việt Nam linh cảm khắp nơi,
Nhiều người kinh quốc tế thời an dân.
Nhiều người khuê các xuất thân,
Hiển danh Thánh Mẫu rạng Thần Nữ
Vương.
Oai linh Thiên cổ thanh chương,
Công tày biển rộng, đức dường núi cao.
Và
tâm sự tiền nhân đã về cõi thiêng liêng hãy còn ôm ấp Hồn thiêng nước Việt:
Nước của mình, dân mình đấy nhé.
Ổ chim hồng sẻ đẻ sao đang,
Tiền nhân công nghiệp huy hoàng,
Dựng nên biển
bạc non vàng ngày nay.
Giờ ta hãy chung tay góp sức,
Giờ ta toan nỗ lực hy sinh,
Hy sinh tự hữu chính mình.
Đắp xây nền
tảng thái bình trời Nam.[17]
.
. .
Một
dân tộc tinh thần tự chủ.
Mấy ngàn năm uy vũ kiêu hùng,
Nam phương góc đất vẫy vùng,
Non sông một
giải muôn chung hải hồ.
Công tiền nhân cơ đồ tạo lập,
Cho cháu con bồi đắp giang san;
Giang san trên mãnh đất vàng,
Hai mươi mấy
triệu Hồng Bàng còn đây.[18]
.
. .
Lần
trang Việt sử mà xem,
Lạc Hồng văn hiến trước thềm đông
phong.
Và:
Ngày nay Trời mở Đạo Nhà,
Cho hồn Nam Việt tinh ba kết thành.[19]
Sở
dĩ khi Đức Chí Tôn Thượng Đế khai đạo Cao Đài, gọi là “Trời mở Đạo Nhà”, chính
vì đó không phải là cái Đạo xa lạ đối với dân tộc Việt Nam, mà Đạo ấy vốn đã
sẵn có trong tâm thức, trong tiềm thức người con dân nước Việt.
Nhưng
Cao Đài chẳng những là Đạo Nhà mà còn là Đại Đạo Tam Kỳ Phổ Độ để cứu độ tòan
thể nhân loại trong đức hiếu sinh của Thượng Đế.
Thế
nên, từ Bản thể đại đồng Việt Nam phát huy lên đạo Cao Đài để Cao Đài Việt Nam
làm gạch nối liền với Bản thể đại đồng nhân lọai, thực hiện Cơ cứu thế kỳ ba:
Muốn
cứu mình, cứu nguy thiên hạ,
Vững niềm tin Tạo Hóa chí công;
Trở về nguồn cội Tổ tông,
Đó là cái Đạo ở trong mỗi trò.[20]
Từ
“nguồn cội Tổ tông” là Bản thể của dân tộc, làm đầu mối thể nhập vào Đạo tại
tâm, chính là Bản thể tự thân như lời dạy của Đức Vạn Hạnh Thiền Sư:
“Hãy chấp tay hướng mắt vào bản thể của con người vạn thể tự
tâm thể biến sanh, các tiểu linh quang hằng
định vẫn có và hằng có. [...]
Tóm
lại, cái chinh phục chiến thắng vĩ đại nhứt là cái chinh phục chiến thắng bản
thể của con người. Đừng hàm hồ nhìn những gì to tát ngoài kia, thực sự những
cái ấy đều tự chứa trong con người mà chính con người chẳng hay chẳng biết. Tự
chủ được bản thể là tự chủ được thiên hạ. Chinh phục được con người hiện hữu là
chinh phục được vũ trụ hằng tồn. Đừng lo cái không đáng lo, đừng nghĩ cái không
đáng nghĩ, hãy bước thẳng và lặng nhìn vào Thiên tâm bản thể.”[21]
Bài
phú sau đây của Đức Giáo Tông Vô Vi Đại Đạo là một đúc kết cho những ý nghĩa
của Bản thể đại đồng dân tộc:
PHÚ
Hỡi tu sĩ muốn hoằng dương nền chánh
giáo,
Hỡi nhơn tài mong hoài bão được non
sông,
Hỡi ai kia làm
sao cho rạng rỡ giống Tiên Rồng,
Cho bốn biển năm châu cùng hạnh
phúc.
Giữa dòng đời phải lóng trong hay
gạn đục,
Trong đạo
trường điều họa phúc phải cân phân;
Biết bao nhiêu người trí thức, bậc
vĩ nhân,
Thiếu chi khách hùng anh cùng nữ
liệt.
………………………………………….
Trí thức ôi!
tình nhân loại hãy mở cửa mà dung
nạp,
Nhân tài ôi!
cảnh [đau thương] [nguy vong] đang
tràn ngập khó phui pha,
Nắm tay nhau sửa dựng mối Đạo nhà,
Nên chung trí hầu lướt qua nơi biển
khổ.
Kìa cuộc sống tạm thấy biết bao vạn
khổ,
Chí hùng anh tìm đến chỗ vượt thang
cao,
Nọ biển trần ai,
dầu gặp phải lượn sóng ba đào,
Chí quả cảm anh thư nào thối bước,
Đạo Cao Đài là phương dược thoát
trần mê,
Phải chung tâm hòa trí cho vẹn mọi
bề,
Chi chi cũng trọn lời thề khi thuở
trước.
Ba vạn sáu nghìn ngày thay lớp áo,
So ngàn xưa sử đạo cả Tây Đông,
Sao
chẳng sớm gieo trồng mầm Nam Bắc?
Nguơn phản cổ đổi thay toàn vạn vật,
Hội Long Hoa gieo rắc mối chơn
truyền,
Nay đến kỳ vạn giáo tổng đồng nguyên,
Thì tình nhơn loại không riêng nơi
nào.
Rồi đây phải tính làm sao?
***
Tính sao cho được nghiệp nhà yên,
Mới định non sông mối chánh truyền .
. .
B ÀI Đ ỌC THÊM
(trích Từ điển địa danh lịch sử văn hóa Việt Nam-Nguyễn Văn
Tân-nxb. VHTT.HàNội-1999)
Núi Tam Đảo:
Dãy núi ở Bắc Bộ, dài 50 km, ngăn cách 2 tỉnh Thái Nguyên và Vĩnh Phúc; núi có
3 đỉnh: Phù Nghĩa, Thành Bàn, Thiên Thị (1585m) . . . . Ở độ cao 100m , có thác
Bạc trên sườn núi dựng đứng. Cách Vĩnh yên 24 km, Hà Nội 86 km về phía Tây Bắc
Núi Tản Viên:
Núi ở xã Thủ Pháp, huyện Bất Bạt tỉnh Sơn Tây, nay thuộc huyện Ba Vì, tỉnh Hà
Tây, giáp tỉnh Hòa Bình; còn gọi là núi Ba Vì; núi có 3 đỉnh ( Ông, Bà, Chẹ ),
đỉnh cao nhất 1281m, ngày đêm mây phủ, ngọc giữa có hòn thắt cổ bồng, trên tỏa
ra như cái tán nên gọi làTản Viên. Tản Viên là danh sơn của nước Việt Nam cổ xưa, vì
núi do thần Sơn Tinh giữ để chống nhau với Thủy Tinh.
Đền thần Tản Viên:
Đền thờ thần núi Tản Viên ở núi Tản Viên, xã Ba Vì, huyện Ba vì, tỉnh hà Tây.
Ông tên thật là Nguyễn Tuấn (còn gọi là Tùng ), lấy công chúa Mị Nương, từng
đánh dẹp vua Thục. Đời sau gọi thần núi Tản Viên là vị tổ của bách thần nước
ta.
Đền Hùng: Đền Hùng
là một di tích lớn được dựng trên núi Nghĩa Lĩnh giữa đất Phong Châu, nay thuộc
xã Hy Cương, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Theo sử sách, sau khi chọn Phong
Châu là đế đô của nước Văn Lang 4000 năm trước,, các vua Hùng đã chọn núi Nghĩa
Lĩnh làm nơi tế trời đất, chủ thần và thiên cổ ( núi Nghĩa Lĩnh còn có tên là
Hy Cương, Nghĩa Cương, Hùng Lĩnh, núi Hùng Cao 175m)
Cổng
vào Đền Hùng xây theo kiểu tam quan, hai tầng. Cửa ra vào cao rộng ở chính
giữa, trên có 4 chữ lớn “Cao sơn cảnh hàng” nghĩa là núi cao đường lớn. Qua
cổng trèo 225 bậc đá lên đến đề Hạ. Ở đây có chùa Thiên Quang, (trước có cây
thiên tuế 700 tuổi). Chùa có gác chuông khá bề thế. Từ đền Hạ xuống vài chục
bậc đá đến đề Giếng, nơi thờ công chúa Tiên Dung và công chúa Ngọc Hoa, con vua
hùng thứ 18. Từ đền Hạ lên 168 bậc thang thì đến đền Trung – nơi các vua Hùng
thường đến bàn việc nước với quần thần. Đi tiếnlên 102 bậc đá thì đến đền Thượng,
nơi vua Hùng làm tế lễ Trời, Đất, Thần Núi, Thần Lúa. Đền có bức hoành phi lớn
4 chữ vàng “Nam Quốc Sơn Hà”. Trước đền có cột đá dựng trên bệ cao gọi là “đá
thề”, nơi Thục Phán nguyện đời đời tế tự các vua Hùng và giữ gìn cơ nghiệp họ
Hùng truyền lại. bênđền Thượng thấp hơn vài chục bậc là lăng Vua Hùng, tượng trưng
cho mộ Tổ, xây dựng đầu thế kỷ này (XX). Toàn bộ khu di tích được trùng tu hoặc
xây thêm cách đây non 100 năm; gần đây trên núi Hùng đã tìm thấy nhiều di vật
của kiến trúc cổ từ thời Lý Trần trở về trước như gạch ngói cổ, thạp đất nung,
cột đá . . .
Hàng
năm, hội Đền Hùng mở vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, hội lễ dâng hương tưởng niệm
các Vua Hùng, tổ tiên của người Việt Nam.®
_Từ Điển Triết
Học Giản Yếu của Hữu Ngọc, Dương Phú Hiệp, Lê Hữu Tầng, Nxb. Đại học và Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
_American
Heritage Dictionary: noumenon n. pl., noumena.
[2] Đông Thắng Chơn
Như, Cao Thượng Bửu Tòa, Tuất thời, 18-8 Bính Ngũ (02-10-1966).
[3] Đạo Học Chỉ Nam, Minh Lý
Thánh Hội, Chương I, Vũ trụ nhất nguyên, Tiết II.
[4] Văn Hóa Luy Lâu
và Kinh Dương Vương, nhiều tác giả, Nxb. Hội Nhà Văn, Hà Nội, 1998, tr. 132-134.
[5] Nguyễn Thị Huế,
sđd. 153-154.
[6]
Trống Đông Sơn, Nxb KHXH, Hà Nội, 1987, tr. 239.
[7] Theo Nguyễn Hữu
Hiếu, Tìm Hiểu Văn Hóa Tâm Linh Nam
Bộ, Nxb. Trẻ, 2004, tr. 144.
[8]
Lê Văn Lan, 04-12-1981,
Tư liệu Viện Khảo Cổ Học, tr. 239.
[9] Theo Công Lý,
Lương Việt, Heritage, VN Airlines, tháng 3-4/2005, tr. 18-19.
[10] Văn Hóa Luy Lâu
và Kinh Dưong Vương, Nxb Hội Nhà Văn, 1998, tr. 39.
[11] Văn Hóa Luy
Lâu, sđd, tr. 41.
[12] Khóa Hư Lục –
Thiền Học Trần Thái Tông, Nguyễn Đăng Thục, tr. 380.
[13] Nguyễn Đăng
Thục, Thiền Học Trần Thái Tông, 1971, tr. 36-37.
[14] Dẫn theo Trần
Văn Giàu, Bản Lĩnh Việt Nam,
Nxb. Trẻ, 2005, tr. 26.
[15] Vạn Hạnh Thiền
Sư, TGST 1972-1973.
[16] Đức Cao Triều Phát.
[17] Đức Lê Đại
Tiên, TGST 1970-1971, tr. 28.
[18] Đức Cao Triều
Phát, Nam
Thành Thánh Thất, 23-8 Canh Tuất, 22-9-1979.
[19] Đoàn Thị Điểm,
Kinh Tam Thừa Chơn Giáo, Q. I, 1961, tr. 55.
[20] Đức Lý Giáo
Tông, CQPTGL, 13-8-1973.
[21] Vạn Hạnh Thiền
Sư, Minh Lý Thánh Hội, Tuất thời, 14-8 Mậu Thân (05-10-1968).
Subscribe to:
Posts (Atom)